Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

Tìm ca dao

Để được kết quả như ý, xin vui lòng đọc Trợ giúp tìm Ca Dao

Điều kiện cần tìm ; Xóa điều kiện tìm

 

Xuất xứ Thể loại Chủ đề Nội dung
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Hán Việt,Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Vâng lời troàn ngươn soái Mình đeo ấn Tổng nhung Lời khuyên rao chư sĩ anh hùng Mặt phải trái coi qua thời biết Mình là con trong đất Việt Chẳng phải người sanh sản cõi Tây phiên Mà ham di địch tước quyền Lại nỡ khiến tấm lòng vô hậu Chớ bắt chước những loài quân dậu A dua hùa lưng lớn thờ chồn Đừng bày theo những đảng ác côn Ngưỡng mặt dọc mượn hơi lũ cáo Người Nam bang hữu đạo Chúa minh quân ơn đức đã trôi dầm Hai mươi năm trường trị cửu yên Dành dụm nghiệp Nam triều ba mươi tỉnh Ngưỡng xem đức hoá ra ơn Thuấn Đã lâm nhuần thiên hạ gội nhơn Nghiêu Rưới khắp cả muôn dân Bắc Nam cúi mặt xưng thần Tứ hải cúi đầu cống lễ Thưởng trăm họ ghe lòng lớn bé Vua ta đều tha thuế Cám muôn dân ruộng khô hư phế Canh điền vua cũng tha phô Ba năm dư thẩm xét tù đồ Lai miễn tử xá sanh nhơn chánh Ấy ví tề thương hải Còn những người thất thập tuần dư Ngoài thời yến diên ban, trong lụa vải cũng ban Còn những người cô độc, với những kẻ bần hàn Xuất phủ huyện chẩn bần, chẩn tế Còn năm hung dịch tễ Vua ta cũng ban ân Phát tiền tuất thân mai táng Ớ các làng xã ơi Bay ngưỡng mặt theo Tây cho đáng Nỡ lòng nào phản nghịch cho yên tâm? Mả Nguỵ Khôi sao hỡi còn lầm? Bài trung nghĩa, miễu công thần, sao bây không tưởng? Trên đầu có hai bên hai vác Làm việc chi trời đất cũng hay Ngửa xem thần còn ở trên vai Để biên chép người trong dương thế Tội nào trọng bằng tội phản quân phế đế Hình nào to bằng hình đứa gian thần Tiếc của tiền sao chẳng tiếc thân? Thân danh trọng, của tiền mấy trọng? Vua thời dụng thánh đời, người dụng hiền Dụng là dụng những kẻ tài trí kinh quyền Dùng những kẻ trung quân ái quốc Làm tôi con phải đền ngọn rau, tấc đất Thời mới xong cái nợ tang bồng Sao bình thời múa mặt xưng hùng Cơn bác loạn kinh tâm tán loạn? Ớ các quan viên ơi! Lũ nào mến, lũ ta xin đừng mến Bọn nào kinh, bọn mình hỡi chớ kinh Nguyền gắng sức đền ơn cho quân thượng Trời đã sanh có binh thời có tướng Binh tướng phải hết lòng Trời đã sanh có chúa lại có tôi Niềm tôi chúa sao cho hết dạ Khéo chỉ chọ cho mã tà khuấy khoả! Mưu thày lay ai mượn phá luỹ bờ? Phận làm tôi chẳng trọn một thờ Không thương hại lại đam thói bạc! Miệng niệm liến Quan Âm Bồ Tát Lòng u ơ tưởng chúa Du De A men, bát nhã khéo xô bồ Thập ác, tràng phạn xui lộn lạo! Nhà nghèo mới biết con rằng thảo Nước rằng nguy, tôi chúa dạ biết ngay Nên hư có một hội nầy Sống thác cho tường mới tận Hễ phận làm nam tử Phải trả nợ quân ân Hễ phận làm con dân Phải đền ơn thuỷ thổ Kìa là tông, nọ là tổ Tông tổ ở đất nào? Kìa là mẹ, nọ là cha Cha mẹ đẻ, sao không đánh liệt? Ớ bọn phản nghịch ơi! Mình là con trong đất Việt Chẳng phải người sanh sản giống Tây di Nó là chi, nó dám tới đây? Ta là chi, mà làm thinh ngồi vậy? Ở đâu mà không thấy? Loài mọi nó bất nhơn! Tổng Định Thành chùa miễu phá tan hoang Đồng tập trận mả mổ đào sạch quét! Sao bây không biết xét? Khiến dạ vô tình! Chẳng thương tấm tượng sàng linh Nở bỏ vùa hương trước án! Nghĩ giận cho đáng Hay ghét bỏ cho ưng! Người ở đời lấy giặc làm hưng Gầm đầu thú lấy Tây làm mạnh Khá tua tu tỉnh Cải ác tùng trung Rất đỗi man di còn có một lòng Huống chi ta là người trung quốc mà không gan ruột? Đồn Bà Quẹo phản hồi chưa bên cuộc Cũng vì quan, cũng vì quân không dạ cần vương Lũy Mĩ Quý hoài đao thương Cũng vì tướng, cũng vì binh không lòng nghĩa khí! Chữ quân thần là đạo nghĩa Phận làm nam tử phải trả nợ cho quân vương Thà là nguyền ra giữa chốn chiến trường Nhứt là nó, nhứt là ta Đồng đánh liệt cho Tây di biết mặt! Gẫm âu thế tình thậm ngặt Vịnh râu dê làm mặt tài khôn Tiếc cơm nước vua nuôi các gã Mồ tổ phụ, cuộc táng chôn Cho dài cửu họ, cho lớn tông môn Đặng dương dương theo loài bất nghĩa Tiếc cơm nước vua nuôi các ngươi Thân cho dài, hình cho lớn, vóc cho cao Theo loài Tây giặc, lấn Nam trào Tám mươi kiếp, những loài vô hậu Chữ “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” Câu “Châu nhi phục thể, thiên địa tuần hường” Bình rồi đây ơn cũng thấy ơn Trị rồi đây oán thời thấy oán! Mặt đứa gian thần xem cho hãn Danh người trung nghĩa thấy cũng tường Nguyện ngàn năm để tiếng “Cần Vương” Thề muôn thuở chẳng nhơ danh đất Việt. (Vè Cần vương) Chi tiết
Miền Nam, Lục Tỉnh, Vè, Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị Thơ Thầy Thông Chánh Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra Thơ thầy Thông Chánh Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra Chép làm một bổn để mà coi chơi Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan Đêm nằm khô héo lá gan Nghĩ giận Biện lý không an tấm lòng Chừng nào tỏ nỗi đục trong Giết tên Biện lý trong lòng mới thanh Lang sa làm việc Châu thành Mười bốn tháng bảy lễ rày Chánh Chung Chỉ sai đua ngựa rần rần Trát đòi làng tổng tư bề đến đây Bốn giờ đua ngựa cát bay Phủ Hơn, Biện lý đương rày ngồi coi Có thầy Thông Chánh hẳn hòi Xách súng nai nịt đi coi châu thành Phủ Hơn lời mới hỏi rằng – Do này thầy Chánh đi rình bắn ai Thầy thông thưa lại cùng ngài – Tôi bắn Biện lý chớ ai bao giờ Thầy thông thiệt lẹ như cờ Bắn quan Biện lý suối vàng mạng vong Các quan, đua ngựa rần rần Tưởng đâu trận giặc không hay sự gì Thầy thông làm việc ngoan ngùy Bắn rồi trở súng bắn mình, để chi “Dù ta có sống một khi Tây cũng hình phạt sống thì nhơ danh” Phủ Hơn thấy vậy thất thanh Bắt tay thầy Chánh giựt rày súng đi Thuốc đạn nạp sẵn một khi Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương Các quan thiên hạ chạy tuôn Đua nhau mà chạy ra đường ngẩn ngơ Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ Bây giờ lại trúng Chánh tòa Bạc Liêu Người Tây bị bệnh cũng nhiều Cảm thương thầy Chánh chín chiều sầu bi Khen cho cây súng dị kỳ An Nam không trúng trúng nhằm người Tây Các hàng phủ huyện đông vầy “- Do nào nó oán người Tây chuyện gì? Trong trại kèn thổi vang vầy Nhà việc hồi trống vang vầy thôn hương Vui thay như hội Tầm Dương Cháo bồi, chè đậu đổ đường sạch trơn Nước chanh, nước đá chi sờn Nem bì gỏi rượu sạch trơn chẳng còn Đi coi lạc vợ mất con Cũng vì thông Chánh phá rày tiệc chơi Ngoài thời hàng xén kêu trời Mất vàng mất chuỗi đếm đàng no nê Bài cào, bông vụ, số đề Thùng xà giựt hết chẳng còn bạc xu Đề lao cai đội canh tù Việc này lộn xộn nó lưu chẳng còn Mấy thầy trở lại lầu son Cảm thương thầy Chánh hao mòn lá gan Vợ con thầy Chánh đoạn trường Bây giờ phụ tử hai đường xa nhau Thầy Thông phát mắng một khi – Phụ nhơn nan hóa biết gì mà lo Tội tao dù có của kho Chuộc làm sao đặng khá lo làm gì Phủ Bình dời gót chân lui Tây đem thầy Chánh một hồi khảo tra – Sao mày dám bắn Lang sa Mày bắn Biện lý thiệt mày to gan Thầy thông nổi giận chửi ngang – Chết tao tao chịu hỏi mà sao ra Chúa sanh tao đứng người ta Quân bây ăn cướp con nhà nước Nam Tao là quân tử chẳng tham Thông Chánh cắn lưỡi còn chi hỏi hoài Quan thầy vốn thiệt cao tài Đổ thuốc vào rượu giao cho Ký Hòa Bảo thầy Thông Chánh kia là Uống vào một chén vậy mà giải khuây Thầy thông không biết không hay Vị lòng thầy Ký uống vào rụng răng Thuốc chi hay đã quá chừng Thầy thông mắc kế rụng răng cả rồi Ký Hòa xem thấy hỡi ôi – Nào tôi có rõ khúc nôi sự tình Tôi đâu nỡ hại trưởng huynh Xin thầy xét lại sự tình cho tôi Thầy thông nghe nói ngùi ngùi – Việc này cũng bởi Tây thời hại ta Rạng ngày đến bữa thứ ba Điệu thầy Thông Chánh đi ra Sài Gòn Cảm thương cùng vợ cùng con Xin thầy sống thác chẳng còn kể chi Vợ con lưỡng mục lâm ly Đi đưa thầy Chánh xót xa đoạn trường Thông Hồ, Ký Hớn, Ký Hòa Mấy thầy ở lại lệ sa dầm dề Ngày nay phân biệt phu thê Bỗng đâu tàu tới súp lê thổi liền – “Ngày nay áo lại rẽ bâu Vợ con bây chớ đau sầu hư thân Nhan Hồi sự cũng ba mươi Phải chi Bành Tổ sống đời trăm năm Thầy thông gan mật nát dầm Mấy thầy than khóc ướt đầm gối loan Tàu ra Giồng Tượng, Bãi Xang Thầy thông nói gạt vậy mà bằng nay – Chúng bây nghe thửa lời này Mở còng một chút thầy ra bô tàu Thầy thông gan dạ như bào Giả đò đi tiểu té nhào xuống sông Mình này mắc phải tay còng Móc sắc nó móc kéo lên bô tàu Thầy thông ruột thắt gan bào Liều mình chẳng đặng làm sao bây giờ Mã tà lớn nhỏ sợ thay Phải thầy chìm mất bị đày Côn Nôn Mã tà sợ đã hết hồn Một lần thầy tiểu biết khôn tới già Thứ này đến thứ cô Ba Mới mười bảy tuổi lấy mà chồng Tây Nghe cha mắc phải nạn này Cúi đầu xin phép vậy thì quan ba – Cho tôi đi tới giữa Tòa Đặng mà tôi thấy mặt cha tôi rày Quan ba lụy nhỏ chau mày – Phụ thân tội trọng xin rày đặng đâu Cô Ba từ giã ngọc lầu Tay cầm súng sáu miệng hầu kêu xe Mình mẩy võ nghệ ai dè Đứng kề lại đó lắng nghe sự tình Mau chân bước tới châu thành Tai nghe quan soái xử mà làm sao Nếu mà xử hiếp cha rày Ta bắn Ngươn soái phát nay mới đành Cha ta dù thác bỏ mình Cũng trong đạo Chúa cầu xin thiên đường Sống chi ở tại nhơn gian Phân ly phụ tử hai đàng cách xa Đem thầy Thông Chánh đến Tòa Đặng mà Ngươn soái xử tra công đồng – Làm sao mày quá anh hùng Dám bắn Biện lý thiệt mày to gan Thầy thông nổi giận chửi ngang – Mày còn hỏi nữa còng va lên đầu Ngươn soái nghe nói lắc đầu – Thiệt dòng Thông Chánh hỗn hào lắm thay Nó không kiêng nể đến ai Giữa Tòa Ngươn soái nó còn dọc ngang Cô Ba cầm súng nhảy vào – Hỏi thằng Ngươn soái nhiếc rày dòng ai Cha ta sanh tử chẳng nài Chớ phải cha kiếp một loài như bây Cao nguyên đất rộng trời đầy Chết thì ta chịu mình này cũng ưng Ngươn soái bèn mới tỏ phân – Mã tà bắt nó để mà làm sao Mã tà phú lích áp vào Cô Ba bèn đá té nhào sảy tay -Ta không thù oán chi bây Để ta đánh với người Tây mới tài Phủ Hơn nghe lọt vào tai – Xin cháu bớt giận chớ đừng hung hăng Khá khen lời bác nói rằng Nhứt nhơn địch vạn thế thường đặng đâu Phủ Hơn rình lại nắm đầu Phủ Bình giựt súng nắm đầu cô Ba Cả kêu phú lích mã tà – Đem còng nó lại bỏ ngoài đề lao Cô Ba lời mới nói vào – Bác ơi hại cháu làm sao cho đành Thiệt tôi sợ lỗi trời sanh Cảm thương thân phụ về thành đế đô Thầy thông gan héo ruột khô Bây giờ phụ tử lộ đồ xa nhau Đem thầy Thông Chánh xuống tàu Chở ra ngoài Huế nạp rày vua ta Thánh hoàng ngồi ngự chương tòa Hỏi thầy Thông Chánh sao mà bắn Tây Thầy thông đặt gối tâu quỳ – Muôn ơn thiên tử dân di tỏ tường Trước sau thần hạ tỏ phân Cái thằng Biện lý ve rày vợ tôi Thì thôi tôi cũng bỏ trôi Vợ chồng tôi mới đổi về Chợ Trong Sài Gòn làm việc mới xong Biện lý trở lại nó hòng ve con Làm cho tôi bỏ Sài Gòn Quả đồ lục súc vợ con ve đùa Thôi thôi tôi cũng nhịn thua Vợ chồng tôi mới trở về Nam Vang Làm cho tán bại gia cang Biện lý xin phép Nam Vang đổi về Làm cho rời rã phu thê Vợ chồng tôi mới đổi về Trà Vinh Đặng gần bằng hữu đệ huynh Biện lý xin phép Trà Vinh đổi về Từ tôi tạo lập gia tề Mới đặt thợ mộc làm nhà cho tôi Làm rồi thì đã khuôn viên Còn một cái cửa thợ không chịu làm Thiệt tôi giận nó căm gan Mắng nhiếc thợ mộc đâm đơn kiện vào Biện lý xử thất một khi Bênh vực thợ mộc bỏ tôi ngày rày Tôi ra làm việc cho Tây Làm việc nhà nước, ai mà cũng thương Ngày nay phân nỗi tỏ tường Không nghe, chống án lên rày Tòa trên Năm nay thời vận không hên Ngươn soái y án một lời như ghi Nên tôi những luống sầu bi Xin vua đừng xử để mà mặc tôi Đức vua nghe nói thêm thương Thiệt thầy Thông Chánh là người trung cang – Bây giờ để trẫm liệu toan Xin dùm thầy Chánh vậy mà kẻo oan – Cúi đầu tâu vọng thánh hoàng Xin vua an nghỉ nghị ngơi chương tòa Việc này là việc Lang sa Giết tha mặc nó vua xin làm gì Làm vua chánh trị trào nghi Đi chiều lòng nó vậy mà thất danh Thương thầy Thông Chánh hùng anh Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời Đem thầy Thông Chánh về Tây Cho mẹ Biện lý xử mà làm sao Mụ đầm nổi giận lôi đình – Thông Chánh dám giết con tao bỏ mình Thông Chánh nổi giận lôi đình – Mẹ nào con nấy một dòng chẳng sai Con mụ vốn thiệt quá tay Ta đâu theo đó nói sai bao giờ Tử sanh như máy thiên cơ Không biết mụ giận vậy là làm sao Đem thầy Thông Chánh xuống tàu Trở về công sở mau mau xử hình Tàu về mới tới Trà Vinh Vợ con bằng hữu đệ huynh đều mừng Thầy thông nước mắt rưng rưng “Trở về chịu chết mà mừng làm chi” Quan trên mới phán một khi Mười bảy tháng sáu xử hình thầy thông Truyền ra lục tỉnh giáp vòng Đi coi Thông Chánh đứng nên anh hùng Càng Long, Ất Ếch, Trà Vinh Ba Xuyên, Rạch Giá, cũng đi đùng đùng Bắc Trang, Trà Cú, Gò Công Sài Gòn, Tân Lạc, cả ngàn muôn dân Thiên hạ đông đảo quá đông Bến Tre cũng đến, Mỏ Cày cũng sang Người ta ăn uống muôn ngàn Bây giờ thầy Chánh hội này trả ơn Phủ Hơn lời mới tỏ bày – Nghe đâu lính tới tịch biên gia tài Bà Phủ lời mới chỉ bày – Vàng vòng tom góp lại thì một ô Chạy ra rồi lại chạy vô Tới chùa mà gởi cho thày lục Nghiêm Gởi rồi trở lại gia đường Phút đâu lính tới nó biên gia tài… Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Ninh Vè, Lịch Sử, Quê Hương, Đất Nước Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung Xâm cương cậy thế khỏe hùng Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh Trời cho thánh tướng giáng sinh Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay Mới lên ba tuổi thơ ngây Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân Gọi sứ phán bảo ân cần Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì Thánh vương khi ấy ra uy Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan Áo thiêng gửi lại Linh san Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên Miếu đền còn dấu cố viên Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa (Vè Thánh Gióng) Chi tiết
Miền Trung, Vè, Bài Bạc Nghe vẻ nghe ve Nghe vè bài tới Cơm chưa kịp bới Trầu chưa kịp têm Đi đánh một đêm Thua ba tiền rưỡi Chồng đánh chồng chửi Giả đò đau máu Ăn sáu bát cơm Chồng đơm không lập Ăn cặp bồ câu, Ăn đầu cá nhám Ăn đám khoai lang Ăn ba thúng đậu Ăn chậu sương sa Ăn đường Đồng Nai Ăn ba trăm bưởi Ăn bảy trăm dừa Chồng đã biểu chừa Còn đòi ăn nữa Ăn lòi tấm ruột Ăn tuột về nhà (Vè bài tới) Chi tiết
Miền Trung, Vè, Bài Bạc, Nghe vẻ nghe ve, Nghe vè bài tới Cơm chưa lập xới Trầu chửa kịp têm Tao đánh ba đêm Thua ba tiền rưỡi Về nhà chống chửi: Thằng Móc, thằng Quăn, Đánh sao không ăn Mà thua lắm bấy? Tui lấy tiền cấy Cho đủ mươi ngày Bảy Thưa, Bảy Dày Cùng là Ngạt kéo Chị em khéo léo, Dễ mượn dễ vay Thân tui ngày rày Dầm mưa dãi nắng Chị em có mắng Tôi cũng ngồi đây Nó là tuồng dày Nó cũng a dua Ăn thì tôi vùa Thua thì tôi chịu (Vè bài tới) Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Trò chơi trẻ con, Trò chơi Dân gian Đánh thẻ hay đánh chuyền : (Bài 2) Bài ca (vè) đánh thẻ: Que mốt (nhặt 1 que) Que mai (nhặt tiếp 1 que và nắm lại trong tay cho đến hết bàn) Cái cò Nỏ năng Con khăng Hòn chắt Nhấm nha Nhấm nhắt Quạ bắt Sang bàn đôi (rải lại ra chân) Đôi tôi (nhặt 2 que) Đôi chị Đôi cái bị Đôi cành hoa Đôi sang ba Rải bàn ba (rải que lại ra chân) Ba quả cà Ba quả táo Ba lá gáo Một sang tư Rải bàn tư (rải lại que) Tư củ từ Tư củ cải Hai sang năm Rải bàn năm (rải lại que) Năm còn năm Năm sang sáu Rải bàn sáu (rải lại que) Sáu củ ấu Bốn sang bảy Rải bàn bảy (rải lại que) Bảy lìa ba Ba sang tám Rải bàn tám (rải lại que) Tám hai lìa Hai sang chín Rải bàn chín (rải lại que) Chín lìa một Một sang mười Ngả năm mươi (đặt xuống 5 que) Mười vơ cả (lại nhặt lên) Ngả xuống đất (đặt cả 10 que xuống) Cất lên tay (nhặt cả lên) Xoay ống nhổ (quay cả cụm que) Đổ tay chuyền Chuyền chuyền một (xoay một vòng que trên hai tay) Một đôi Chuyền chuyền hai Hai đôi Chuyền chuyền ba Ba đôi Chuyền chuyền bốn Bốn đôi Chuyền chuyền năm Năm đôi Đầu quạ (Bắt đầu thả từng que xuống chân) Quá giang Sang sông Về đò Cò nhảy Gãy cây Mây leo Bèo trôi Ổi xanh Hành bóc Trứng đỏ lòng (quơ 2 que lên một lần) Tôm cong đít vịt Vào làng xin thịt Ra làng xin xôi Anh chị em ơi, cho tôi vét bàn thiên hạ. Cách chơi: Cần hai hoặc vài người. Bó đũa gồm 10 đũa hoặc 10 que tre vót tròn, nhỏ bằng que kem, dài 20cm và một hòn cái (hòn cuội tròn hoặc trái banh Tennis). Người chơi ngồi duỗi một chân, rải bó đũa dọc theo ống chân, vừa đọc một câu, vừa Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Bánh Trái, Ẩm Thực, Lẳng lặng mà nghe Bánh đứng đầu vè Ðó là bánh tổ Cái mặt nhiều lỗ Là bánh tàn ong Ðể nó không đồng Ðó là bánh tráng Ngồi lại đầy ván Nó là bánh quy Sai không chịu đi Ðó là bánh bàng Trên đỏ dưới vàng Là bánh da lợn Mây kéo dờn dợn Là bánh da trời Ăn không dám mời Nó là bánh ít Băng rừng băng rít Ðó là bánh men Thấy mặt là khen Nó là xôi vị Nhiều nhân nhiều nhị Là bánh trung thu Vô lửa nổi u Ðó là bánh phồng Ðem thả giữa dòng Ðó là bánh neo Ra nắng dẻo queo Ðó là bánh sáp Không ai dám xáp Ðó là bánh xe, Xỏ lại tréo que Ðó là bánh rế Ăn rồi còn ế Ðó là bánh dừa Ăn không có chừa Ðó là bánh tiêu Ðể lâu nó thiu Vốn là bánh ướt Chưa ăn giấu trước Nó là bánh cam Bỏ vô khám giam Ðó là bánh còng Ôm ấp vào lòng Nó là bánh kẹp Xem coi thật đẹp Ðó là bánh chưng Chồng nói mới ưng Ðó là bánh hỏi Ðêm nằm mệt mỏi Ðó là bánh canh Kéo níu từng khoanh Ấy là bánh tét Ráp lại từng nét Nó là bánh gừng Bước lên có từng Ðó là bánh cấp Nằm ngủ dưới thấp Là bánh hạ nhân Mình nó trợt trơn Ấy là bánh lọt Ăn thơm mà ngọt Là bánh hoa viên Ăn khỏi trả tiền Ðó là bánh bao Ðem liệng đàng sau Là bánh quai vạc Trắng trong như bạc Là bánh xu xê Mặt tràng ê hề Ðó là bánh bún Mình đen lốm đốm Là bánh hạt mè Thấy ai cũng kè Ðó là bánh dập Người thích mặt chắc Ðó là bánh dày Nói nghe rất hay Ðó là bánh mật Bụng no ấm cật Ðó là bánh âm Mình mẩy trắng trong Là bánh bột lọc Ai cũng mời mọc Là cái bánh trôi Ðứng không thấy vui Ðó là bánh bò Nằm cứ co ro Ðó là bánh cuốn Cái gì cũng muốn Nó là bánh đa Dứt hoài không ra Nó là bánh dẻo Nổi trôi khắp nẻo Ðó là bánh bèo Giàu mãi không nghèo Chính là bánh khoái Ðược người ưu đãi Là bánh phồng phềnh Nhẹ mỏng và mềm Ðó là bánh cốm Áo quần lốm đốm Nó là bánh gai Một giống như hai Chính là bánh đúc Tròn cho một cục Ðó là bánh vo Ăn hoài không no Ðó là bánh vẽ Dùng cho lính trẻ Là bánh chè lam Ăn uống tham lam Ðó là bánh ú Ði mấy không đủ Ðó là bánh giò Từng đoạn quanh co Ðó là bánh khúc… (Vè bánh trái (II)) Chi tiết
Miền Trung, Nghệ Tĩnh, Vè, Quê Hương,Đất Nước,Bệnh Tật,Phương Ngữ, Lên Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Đi chặt ná phá cây. Ốm da bủng, bụng báng, Gấy chạy thuốc chạy thầy Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Lịch Sử, Đời Sống, Nhu Cầu Nhất gạo nhì rau Tam dầu tứ muối Thịt thì đuôi đuối Cá biển mất mùa Đậu phụ chua chua Nước chấm nhạt thếch Mì chính có đếch Vải sợi chưa về Săm lốp thiếu ghê Cái gì cũng thiếu (Vè thời Bao Cấp) Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Đánh Thẻ, Vè đánh thẻ Trồng luống cải Trải con chắt Một dẻo dang Hai sang đò Ba cò kếu Bốn nghêu ngao Năm dao thớt Sáu thịt muối Bảy chuối xanh Tám hành tỏi Chín gói ghém Mười chém chân … Đặt xuống đất Cất lên tay Xoay ống nhổ Đổ tay chuyền Chuyền chuyền một Một một đôi Chuyền chuyề hai Hai hai đôi… Chuyền chuyền mười Mười mười đôi Đặt xuống chân Nâng lấy một Chộp lấy đoi…^ Đặt xuống đây Xoay lấy một Chộp lấy mười Một này một nua…+~ Hai sang ba Ba này ba nữa Ba nữa, một sang tư Tư củ từ Tư củ khoai Hai sang năm Năm lìa năm Năm sang sáu Sáu lìa tư Tư sang bảy Bảy lìa ba Ba sang tám Tám lìa hai Hai sang chín Chín lìa một Một sang mười Mười vơ cả Cả xuống đất Cất lên tay Xoay ống nhổ Đổi tay chuyền (vè đánh thẻ ) Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Nói Ngược,Vui Nhộn,Tương Phản, Ve vẻ vè ve Cái vè nói ngược Non cao đầy nước Đáy biển đầy cây Dưới đất lắm mây Trên trời lắm cỏ Người thì có mỏ Chim thì có mồm Thẳng như lưng tôm Cong như cán cuốc Thơm nhất là ruốc Hôi nhất là hương Đặc như ống bương Rỗng như ruột gỗ Chó thì hay mổ Gà hay liếm la Xù xì quả cà Trơn như quả mít Meo meo là vịt Quạc quạc là mèo Trâu thì hay trèo Sóc thì lội nước Rắn thì hay bước Voi thì hay bò Ngắn như cổ cò Dài như cổ vịt Đỏ như quả quýt Vàng như quả hồng Cao tồng ngồng như chim tu hú Lùn lụ khụ như chim bồ nông Hay chạy lon ton là gà mới nở Cái mặt hay đỏ là con gà mào Hay bơi dưới ao mẹ con nhà vịt Hay la hay hét là con bồ chao Hay bay hay nhào mẹ con bói cá Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng (Vè Nói Ngược) Chi tiết
Miền Nam, Kiên Giang, Vè, Nói Ngược,Vui Nhộn,Tương Phản, Nghe vẻ nghe ve Nghe vè nói ngược Ngựa đua dưới nước Tàu chạy lên bờ Lên núi đặt lờ Xuống sông đốn củi… (Vè nói ngược) Chi tiết
Miền Nam, Kiên Giang, Vè, Nói Ngược,Tương Phản,Hành Động,Vui Nhộn, Nghe vẻ nghe ve (3) Nghe vè nói ngược Tàu chạy trên bờ Ngựa đua dưới nước Gà cồ hay ủi Heo nái hay bươi Sáng trăng ba mươi Đêm rằm trời tối Nấu cơm bằng cối Giã gạo bằng nồi Gói bánh bằng vôi Ăn trầu bằng bột Xới đất bằng liềm Bửa củi bằng kim May áo bằng búa Dao bầu gánh lúa Đòn xóc bửa cau Cọp tắm dưới bàu Cá bơi trên lúa (Vè nói ngược) Chi tiết
Miền Nam, Lục Tỉnh, Vè, Rau Cỏ,Thiên Nhiên,Rau Cỏ, Nghe vẻ nghe ve Nghe vè về rau Xấc láo hỗn hào Là rau ngành ngạnh Trong lòng không tránh Vốn thiệt tâm lang Đất rộng bò ngang Là rau muống biển Quan đòi thầy kiện Bình bát nấu canh Ăn hơi tanh tanh Là rau dấp cá Không ba có má Rau má có bờ Thò tay so đo Nó là rau nhớt Ăn cay như ớt Vốt thiệt rau răm Sống tới ngàn năm Là rau vạn thọ Tay hay xớ rớ Vốn thiệt rau co Làng bắt chẳng cho Chính là rau húng Lên chùa mà cúng Lại có hành hương Giục giã buông cương Là rau mã đề (Vè về rau) Chi tiết
Miền Nam, Vè, THiên Nhiên, Cây Trái Nghe ve nghe vẻ nghe vè trái cây Dây ở trên mây là trái đậu rồng, Có vợ có chồng là trái đu đủ, Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt. Hình tựa gà xước vốn thiệt trái thơm. Cái đầu chôm bôm là trái bắp nấu, Rủ nhau làm xấu trái cà dái dê , Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo, Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi. Sông sâu chàng lội là trái mảng cầu, Chẳng thấy nàng dâu thật là trái cách. Trong ruột ọc ạch vốn thiệt dừa xiêm, Hễ chín thâm kim; chuối già, chuối sứ. Tam tung tự tứ là trái dưa gan, Vốn ở Miền Man là trái bí rợ, Mẹ sai đi chợ vốn thiệt trái dâu Ở những ao sâu là trái bông súng Chằng nên lễ cúng vốn thiệt trái sung. Nhỏ mà cay lung thiệt là ớt hiểm, Đánh túc cầu liềm vốn thiệt trái me, Nắng mà chẳng che là trái rau mát, Rủ nhau chà xát vốn thiệt trái chanh, Nhỏ mà làm anh, trái đào lộn hột, Ăn mà chẳng lột vốn thiệt trái tiêu, Thổi nghe ú liêu là trái cóc kèn, Rủ nhau đi rèn là trái đậu rựa, Đua nhau chọn lựa là trái dành dành, Cam ngọt, cam sành, chuối già chuối sứ. Nhưng chi lịch sự bằng táo với hồng Những gái chưa chồng muốn ăn mua lấy Chi tiết
Miền Trung, Thừa Thiên, Vè, Thói Hư,Tật Xấu,Bài Bạc,Phụ Nữ, Nghe vẻ nghe ve, Nghe vè bài tới, Cơm chưa kịp bới, Trầu chưa kịp têm, Tôi đánh một đêm, Thua ba tiền rưỡi, Về nhà chồng chửi, Thằng móc thằng quăn, Đánh sao không ăn, Mà thua lắm bấy, Tôi lấy tiền cấy, Cho đủ mười ngày, (Vè bài tới) Chi tiết
Miền Trung, Phú Yên, Vè, Hài Hước, Nghe vẻ nghe ve, Nghe vè bắt mánh, Gặp tên trời đánh, Thì hết ve ve Chi tiết
Vè, Tôm Cá,Buôn Bán,Ăn Uống, Vè bán quán Tui xin mời cô bác Cùng quý vị gần xa Đi chơi hay về nhà Lâu lâu gặp bằng hữu Tui mời cho đầy đủ Không sót một người nào Chủ quán xin mời vào Dùng cơm hay hủ tiếu Thịt quay cùng xá xíu Hễ có tiền là ăn Thịt chó xào rau cần Thịt bò thì nhúng giấm Gà tơ thì nấu nấm Chim sẻ thì rô ti Cua lột chiên bột mì Cá lý ngư làm gỏi Nem nướng rồi bánh hỏi Trứng vịt, trứng gà ung Hẹ bông nấu với lòng Cá thu thì kho rục … Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Lịch Sử, Thương thay, hỡi các chú ơi Ăn uống đã rồi thầy kể một văn: Quý Tỵ giữa ngày mồng năm, Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa Một chi đánh ở Đống Đa Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần Phép voi bại trận tiên phong Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề Đao binh tử trận đầy khe Dọc đường gài gác nằm kề ngăn ngăn Chú sang cứu viện nước Nam Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay Chú thì thắt cổ trên cây Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà Chú thì thác xuống Diêm La Chú nào còn sống về nhà đại minh Ai ai là chẳng đeo tình Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cô hồn Chú nào có vợ có con Có cha có mẹ hãy còn giỗ chung Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông Nam Kinh, Quảng Bắc có lòng sang đây Trời làm một trận gió lay, Sống làm tướng mãnh, thác rày thần linh Phù hộ tín chủ bình an Cửa nhà phú túc vững bền cao xây Mạo chiên nón khách móng giầy, Đuôi sam hảo tố chú rày cần lo Chú thiêng nao đấy phụng thờ Kính quan tôn sứ để nhờ hậu lai Nhớ xưa chú vác lăng bài Cung đao tay nỏ, đầu cài nón chiên Tay vòng bạc, cổ đeo tiền Cờ mao một ngọn xông tên chiến trường Điền Châu Thái thú đảm đương Liều mình tử trận chiến trường nên công Trận vây ở trong Năm Đồng Rạng ngày mồng sáu cờ dong lai hàng Còn ông Tổng Đốc ban sang Quyết liều một trận chiến trường ba quân Muốn cho được chữ ái ân Tuyền quyền vai gánh trung cần đế vương Vua sai bộ sứ tiếp sang Quan tài phong kín đón đường kéo ra Con con cháu cháu hằng hà Mừng lấy được xác Điền Châu đem về Tướng tài can đảm cũng ghê Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa Các chú thác xuống Diêm La Bắc Nam đôi ngả trẻ già cùng thương Cơm dày áo nặng nhà vương Bõ công gối đất nằm sương bao đành Thác ở chiến trận nên danh Về thời vua giết chẳng lành được đâu Chú thì thác ở đầu cầu Chú thì tự vẫn đâm đầu xuống ao Ai ai trông thấy thương sao Lập đàn chẩn tế mà kêu cô hồn Gọi là mảnh áo thoi vàng Ít nhiều làm của ăn đường sính thiên Khuông phù tín chủ bình an Gái trai già trẻ thiên niên thọ trường. (Vè Thiên triều văn) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Gia Cầm,Thân Phận, Thân tôi coi vịt cực khổ vô hồi Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng Vịt chạy qua bờ Ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa Vịt ăn Ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau Vịt chạy Đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc Tối về nhà đèn chưa tắt Như đãi yến công nương Ngày ra tới đứng ngoài đường, Chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại. (Vè chăn vịt ) Chi tiết
Vè, Buôn Bán,Ăn Uống, Nghe vẻ nghe ve Nghe vè bán quán Ở đây buôn bán Bánh hỏi thịt quay Bánh mì lạp xưởng Muốn ăn sung sướng Thì xỉa tiền ra Xin lạy mấy cha Xin đừng ăn chịu! (Vè bán quán) Chi tiết
Miền Trung, Bình Định, Vè, Bài Bạc, Bài chòi bài tới là ba mươi lá Dang tay xớn xá là cái gã Ông Ầm Hay đi sụp hầm, là anh Tứ Cẳng Một dề trăng trắng, là chị Bạch Huê Ăn cận nằm kề, là anh Chín Gối Ba chìm bảy nổi, là chị Sáu Ghe Lập bạn lập bè, là anh Năm Dụm Hay đùm hay túm, Tứ Xách đã quen Quần áo lèng teng, Nhì Nghèo cực khổ Hay bươi hay mổ, là chị Ba Gà Có ngạnh có ngà, là anh Tứ Tượng Phủ màn treo trướng, là chị Tám Dừng Ướt áo ướt quần, là anh Ngũ Trợt Rung cây không rớt, Tứ Móc thiệt hay Con mắt nhắm ngay, Tam Quăng thiệt giỏi … (Vè bài chòi) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Chợ Búa,Buôn Bán,Chợ Phiên,Phương Ngữ, Chợ Lường họp lại vui thay Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò Xã đã khéo lo Lập lều hai dãy Hàng sồi hàng vải Thì kéo lên đình Hàng xén xung quanh Hàng thịt hàng lòng ở giữa Ngong vô trửa chợ Chộ thị với hồng Dòm ngang xuống sông Chộ thuyền với lái Ngong sang bên phải Chộ những vịt gà Hàng nhãn, hàng na Hàng trầu, hàng mấu Hàng ngô, hàng đậu Hàng mít, hàng cà Hàng bánh, hàng quà Hàng chi có cả Rồi nào hàng cá Hàng bưởi, hàng bòng … (Vè chợ Lường) Chi tiết
Miền Trung, Bình Định, Vè, Ái Quốc,Lịch Sử,Chống Ngoại Xâm,Hành Động,Quân Sự, Lía ta nổi tiếng anh hào Sơn hà một góc thiếu nào người hay Bạc tiền thừa đủ một hai Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông Làm cho bốn biển anh hùng Mến danh đều tới phục tùng chân tay. Kẻ nào tàn ác lâu nay Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan Nhất nhì những bực nhà quan Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên Nhà nào nhiều bạc dư tiền Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu. Tuy chàng ở chốn non đầu Nhưng mà lương thực vật nào lại không Lâu la ngày một tụ đông Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai Mọi người trên dưới trong ngoài Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn Tiếng tăm về đến trào đàng Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an. Nam triều chúa ngự ngai vàng Bá quan chầu chực hai hàng tung hô Có quan ngự sử bày phô Tâu lên vua rõ lai do sự tình Đem việc chàng Lía chiêu binh Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng Nào khi Lía phá xóm làng Đến khi lên núi dọc ngang thế nào Kể tên những bậc phú hào Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài Vua ngồi nghe rõ một hai, Đập bàn, vỗ án giận rày thét la: – Dè đâu có đứa gian tà Giết người, đoạt của thiệt là khó dung Truyền cho mười vạn binh hùng Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng Đại quân vâng lệnh Nam hoàng Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong Gập ghềnh bao quản núi non Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. … (Vè chàng Lía) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Đa Thê,Phương Ngữ,Thân Phận, Chồng chung khó lắm ai ơi! Ai bước chân vô đó, Không ăn ngồi được mô! Quyền bán với quyền mua Thời là em không có, Đâm gạo với xay ló, Thời là em đã có phần, Đập đất với khiêng phân, Đâm xay, rồi nấu nướng. … Gẫm như bọn người ở, Chỉ sáu tháng thời thôi, Cái thân em ở đời, Hỏi làm sao chịu được? Chồng sai đi múc nước, Vợ bảo lấy que tăm. Trải chiếu toan đi nằm, Đọi dì hai chưa rửa Có ba bốn thúng lúa, Chị chồng đầu chân xay. Cám em bắc lên đây, Cây rau riu chưa cắt, Ngọn rau riu chưa xắt. Em làm công việc vặt, Vừa đến tối canh ba, Em vừa ngả mình ra, Con chim kia vừa kêu, Con gà rừng vừa gáy. Chồng đánh em thức dậy, Biểu nấu cơm đi cày; Gạo em chưa đâm xay, Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ. Một tháng sáu phiên chợ, Bà cho đi một phiên, Bà trao cho một tiền, Bà truyền cho đủ giống, Mua mười đồng thì trứng, Lại mua mười đồng trầu, Mua mười tám đồng cau, Hai mươi đồng thì mỡ, Lựa còn một chữ, Tráo lại hàng vôi Mua đoạn, bán rồi Vừa hầu tan buổi chợ Về đến đầu ngõ, Con đòi: “Bánh mẹ mô?” – Được chồng riêng tê tồ Chồng chung, mẹ nỏ dám mua thứ gì! (Vè chồng chung) Chi tiết
Miền Trung, Thừa Thiên, Huế, Vè, Lười Biếng,Tướng Mạo,Tương Phản, So Sánh Ve vẻ vè ve Nghe vè mụ nhác Không lo sương nác Chỉ biết ngồi ăn Ăn rồi lại ngủ Ngủ rồi lại ngồi Nước chảy bòng trôi Mỗi ngày qua bữa Luộc rau nhác rửa Uống nước nhác hâm Chàm làm chụa lụa Ngó xuống đôi đũa Lọ luốc lọ lem Ngó lại chị em Xem ra ôốc dôộc Ngó lại trên trốc Rận mẹ rận con Nói không kiêng dè Chỉ hay sinh sự Cái mặt chự bự Như thể cái mâm Tấm lưng tày thúng Dân chúng đều hay Ai ai cũng biết (Vè mụ nhác) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Vợ Chồng,Tât Xấu, Vè chữ phu Chữ phu là dại Tơ hồng dán lại Nên điệu vợ chồng Đụng con gái hung Lang dâm trắc nết Mình làm chí chết Nó duỗi cẳng nó ăn Sắm áo sắm khăn Sắm vòng sắm niểng Mình nói một tiếng Nó nói lại mười Mình làm cả đời Nó tiêu một lát Nó mê chốn khác Nó bỏ nó đi Mình nói nó săn si Chữ phu là dại (Vè chữ phu) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Vè, Bài Bạc, Nghe vẻ nghe ve Nghe vè cờ bạc Đầu hôm xao xác Bạc tốt như tiên Đêm khuya hết tiền Bạc như chim cú. Cái đầu sù sụ Con mắt trõm lơ Hình đi phất phơ Như con chó đói Chân đi cà khói Dạo xóm dạo làng Quần rách lang thang Lấy tay mà túm… (Vè cờ bạc) Chi tiết
Miền Bắc, Thái Bình, Miền Trung, Quảng Bình Vè, Chống Ngoại Xâm, Quê Hương, Địa Danh, Ái Quốc, Giữa năm Đinh Dậu mới rồi Sư ông chùa Lãng là người đảm đang Viết tờ quyên giáo các làng Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm Chiều hôm còn ở Đồng Xâm Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương Cùng với nghĩa sĩ bốn phương Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh Phá dinh công sứ Thái Bình Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân. (Vè Phá dinh công sứ Thái Bình) Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Cây Cỏ,Cây Trái, Vo vỏ vò vo Cây nhỏ cây to Cây cò đậu Cây sáo sậu trèo Cây rắn leo Cây mèo nhảy Cây gãy cành Cây xanh lá Cây xây rạ Cây chồng rơm Cây đơm quả Cây xả hương Cây bám tường Cây cắm đất Ta ngồi ta nói thật Cây tre xanh cật Ruột trắng như bông Cây mít đỏ lòng Cây thông nứt vỏ Cây ngó thân mềm Cây sên cứng cáp Cây núc nác da xanh Cây chanh chua quả Cây vả cây sung Là cùng chú bác Cây năn cây lác Hay mọc giữa đồng Cây đậu cây bông Hay ưa ruộng cạn Cây khoai lạng vạng Leo dọc vồng cao Ăn quả cây nào Ta rào cây ấy Quả hồng béo ngậy Da đỏ hồng hào Quả cam xanh xao Múi ăn thì ngọt Quả bòng quả nhót Chua lét chua le Quả đào ngon ghê Quả na ngon gớm Quả thị vàng rộm Thơm lựng cả nhà Hương ổi bay xa Gọi người đến hái Còn cây cỏ dại Chẳng ai thèm nhìn Mời bạn ngồi im Nghe tôi nói thật Cây lúa là nhất Ở giữa trần đời Ta đi dạo khắp trăm nơi Cây lúa đẹp nhất ở nơi đồng làng Một cây Hai cây Ba cây Bốn cây Năm cây Cây làm vày Cây làm cột Cây che dột Cây làm xà Cây cúng hoa Cây đơm trấy Cây cho gậy Cây đóng thuyền Cây đan phên Cây chắn giậu Cây đậu leo Cây khiêng heo Cây đèo chó Cây đánh hổ Cây bắt voi Cây làm roi Đi đánh giặc. (Vè về cây) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Trị, Vè, Chống Thuế, Năm nay kinh tế Không tiền đóng thuế Lính bắt, lính còng Vợ con khóc ròng Mấy ông thiệt tệ Tháng này thuế vụ không lo Cơm ăn không no Tiền đâu mà đóng (Vè chống thuế) Chi tiết
Đại Chúng, Vè, Cây Trái, Da dẻ vàng khè Là anh chàng thị Tròn như lợn ỉ Là quả dưa vàng Nằm đất lang thang Là anh dưa chuột Mồm nói ngọt xớt Là mấy cô hồng Xù xì lắm lông Là anh cu dứa Da đỏ như lửa Là thằng ớt cay Má mịn hây hây Cô mơ cô mận Ruột thì đỏ thắm Là cái ả đào Hay rụng xuống ao Thằng sung chua chát Da vàng trơn mát Là quýt với cam Chua rụng răng hàm Cô chanh cô khế Xinh tròn be bé Em táo đầu nhà Con bảy con ba Chị dừa mắn đẻ Hàm răng to khoẻ Là bác chuối tiêu Nằm đất mốc meo Là anh chàng bí Thon như cái bị Là chị bầu xanh Dáng dài thanh thanh Cô xoài cô mướp Mình dài gai góc Cụ mít nhà ta Đỏ bóng nước da Cà chua chính cống Vỏ xanh ong óng Chính thị bà cau Nam nám da nâu Hồng xiêm, mắc cọp Xù xì bỏng rộp Mướp đắng eo ôi Ngọt mát cả môi Xin chào cô nhãn Mặt mày đỏ thắm Cô vải đang chờ Mắt mở lơ mơ Thằng na buồn ngủ. (Vè các loại quả) Chi tiết
Miền Bắc, Vè, Khoa Bảng, Một giỏ ông đồ, Một bồ ông cống, Một đống ông nghè, Một bè tiến sĩ, Một bị trạng nguyên, Một thuyền bảng nhãn (Vè ông Đồ ông Cống) Chi tiết
Miền Nam, Lục Tỉnh Vè, Rượu Chè,Thói Hư,Tật Xấu, Một chén giải cơn sầu Hai chén còn nhơn đạo Ba chén còn gượng gạo Bốn chén nổi sân si Năm chén sập thần vì Sáu chén ngồi ghì xuống đó Bảy chén thì đuổi chẳng đi Tám chén lóc trộn lộn ra Chín chén lóc trộn lộn vô Mười chén ai xô tôi ngã Mười một chén chửi cha ai xô (Vè bợm nhậu) Chi tiết
Miền Nam, Vè, Buôn Bán,Sông Nước,Thời Gian,Quê Hương,Đất Nước, Vè các lái (hát ra) Tiếng đồn các lái Đồng Nai Tháng giêng cưa ván, tháng hai đóng thuyền Tháng ba củi lửa huyên thuyên Tháng tư dọn thuyền quay lại lộn ra Sài Gòn, Rạch Giá bao xa Lần theo tăm cá xa nhà đã lâu Một trăm ông lái làu làu Đi qua Giáp Nước, Vũng Tàu phải ghê Kỳ Vân có bãi lưới rê Non cao biển thẳm ủ ê tấc lòng Khúc nôi lụy nhỏ đằm đằm Xích Ram đã khỏi, Bãi Dầm đã qua Hồ Tràm, Hồ Đắng de ra Thân Trong nằm trước, Mũi Bà nằm trong Cù Mi thượng hạ song song La Gi nằm khuất phía trong Hòn Bà Cây Khô, Cửa Cạn đã qua Trực nhìn Khe Cả nay đà kề bên Dập dìu ghe lưới bủa chen Xa trông đã thấy Mũi Đèn ở kia Đồn rằng Phan Thiết lịch thay Sớm chiều phiên chợ tối ngày bán buôn Trên đường xe chạy bon bon Dưới sông thuyền đậu bán buôn rộn ràng Phú Hài chừ đã liền sang Buồm dong ba cánh lòng càng thảnh thơi Mũi Né ta sẽ buông khơi Trong thời có xóm ăn chơi bĩ bàng Anh em nước, củi đàng hoàng Nước mắt hai hàng lụy nhỏ xót xa Hòn Nôm, Quảng Thí kia là, Ngó lên Mũi Nhỏ, trông qua Hòn Nghề Ngồi buồn cám cảnh ê chề Hỏi con sống bổ tới quê bao thì? Con Nghê sao khéo dị kì Ra nằm nước mặn luận chi thương hàn Mãi trông vừa thấy một đàng Đi ngoài Nội, Ngoại, cầm làn gác giăng Anh em bèn bảo nhau rằng Trầu cau, nước hết, gác giăng làm gì? Quạt cào sang kiếm một khi Chụt Đèn đã khỏi, tới thì Lò Kho Tai nghe lưới đánh, mành hò Buông lên một đỗi còn lo xùng xình Ngó lên Bãi Miễu vắng tanh Tứ bề quạnh quẽ trong mình xót xa Có người cố quận kia là Mai qua Bãi Chụt để mà gặp nhau Vừa chào, vừa chạy cho mau Kẻ lo mua bán, người sầu niềm tây Cầu Đá, Cửa Bé là đây Bãi Dông đã khỏi ló rày Nha Trang Trên thời quán xá rộn ràng Dưới sông thuyền đậu nghinh ngang quá chừng Gặp nhau mừng rỡ tưng bừng Rượu trà thết đãi vui chung chào mời Kẻ thời ăn uống vui chơi Người thời ve vãn những lời nguyệt hoa Kẻ thời mua song cùng lá Người thời mua đệm, mua cau, mua hèo Kẻ thời mua dây buộc lèo Người mua sống lá đem theo xỏ tiền Kẻ mua thuốc bánh, thuốc viên Người mua thuốc xấp để nguyên đem về Đôi ta kết nghĩa phu thê Cùng qua mua bán mà mê tấm tình Đất Chụt là đất nhàn thanh Trai chuyên biển giã, gái rành bán buôn Thôi thôi chớ nói thêm buồn Kéo neo mà chạy đi luôn kịp thời Ngó vô Hòn Đất thương ôi Ngoài thì Hòn Bạc lẻ loi một mình Vũng Túc, Cầm Bấc cảnh xinh Muôn Xưởng, Hòn Nọc liên kinh Chà Là Cây Sung, Mũi Cỏ đã qua Bến đò Cồn Cạn vang xa tiếng đồn Hòn Lớn, Hòn Nhỏ chỉn khôn Cứt Chim, Hòn Đỏ đêm hôm nào lầm Trông lên một đỗi tăm tăm Gần nơi Cửa Nhỏ rạng danh Bãi Trường Trâu Nằm ngoài nước chín phương Sóng xô, gió tạt mênh mông tứ bề Xa Cừ cách trở sơn khê Buông lên một đỗi ngó về Ba Gia Đồi Mồi chớn chở xê ra Thông trong Cát Thắm chạy ra Hòn Gầm Hòn Gầm sóng bổ lao xao Vát mặt nghinh vào Bãi Võ sóng ngang Thương con nhớ vợ trăm đàng Nước mắt hai hàng lệ ứa thấm biên Sừng sững Đá Chồng mọc lên Bia tạc để truyền nối đức Hùng Vương Hướng lên một đỗi dặm trường Vũng Rô núi tấn bốn phương như nhà Đầu gành Mũi Nạy xê ra Bên trên có bãi hiệu là Bãi Môn Bãi Tiên, Bãi Xép kề bên Hòn Khô nằm trước ấy miền Trà Nông Biển bờ lai láng mênh mông Ngó vô thấy tháp Dinh Ông, Đà Rằng Chóp Chài, Ma Liên, Mây Nứt chừng ngằn Hòn Chùa, Hòn Dứa nằm giăng kia là Hòn Yến, Cát Xối đã qua Mồ xây mả đắp đồn xa ông Cao Biền Vốn là người ở Đại Niên Tìm long điểm huyệt, dựng nên chốn này Bàn Thang lum lúp lá, cây Anh em cố nhớ, kẻo rày dễ quên Hòn Lao nước chảy hai bên Thông trong Rạn Lẽ, phía trên Vũng Bầu Ngó vô Cửa Mới thêm rầu Nay bồi, mai lở cạn sâu vô chừng Gặp nhau nửa tủi nửa mừng Xa xa Cát Xối liền chưn Mái Nhà Gành Đen chớn chở xô ra Gò Bàng cát sạn ăn qua Bãi Trầu Sơn Đài xanh ngắt một màu Hòn Yến cui cút lại hầu ngoài khơi Mưa sa gió lạnh tợ đồng Bãi Ngang, Gành Đỏ bạn cùng làng đôi Buồm dong, mắt ngó biển trời Ngó ra Lao Xá lẻ loi một mình Trông về Vũng Lấm rất xinh Vôi tô, ngói lợp, chen chân phố phường Đây kia nhà ở hai phương, Bắc cầu Sông Cạn làm đường vãng lai Sáng chiều họp chợ xoay vần Thuyền bè tấp nập, khách thương đủ miền Trực tình nhớ tới sự riêng Kéo neo mà chạy nhắm miền quê xưa Hết Thìn sang Tỵ vừa trưa Song Giang nước lớn đò đưa Sông Cầu Quán Chùa nay ở nơi đâu Vũng Chào, Vũng Sứ lại hầu Vũng La Gành Tướng, Mũi Móm trông ra Mò O đã khỏi, sang qua Gành Bà Ngó về bãi cát Trường Sa Phong cảnh nơi đó xinh đà quá xinh Cù Mông, Vũng Trích ăn quanh Vũng Mú trực chỉ Lao Xanh sáng đèn Thuận buồn xuôi gió một phen Ghé vô Cửa Giã trong miền Hòn Mai Gành Ráng mút tận Bãi Dài Băng qua Bãi Nhạn vô chơi phố phường Đi cho thấu chữ Quy Nhơn Giáp đầm Thị Nại hãy còn sử xanh Vô chợ ăn bún song thần Hỏi mua nón ngựa để dành về quê Thiếu gì hải vị sơn khê Vào Nam ra Bắc ê chề ngựa xe Nói ra sợ nẫu cười chê Có say đất khách mới mê nết người Nghĩ thôi dạ tợ dầu sôi Day qua Mũi Mác, San Hô dong buồm Eo Vượt ló thấy Cỏ, Cân Vũng Nồm, Vũng Bấc kề gần làng đôi Ngó vô Cách Thử thương ôi Trông chồng hóa đá, tích đời con ghi Vũng Tô, suối Bún là đây Hòn Khô, Nước Ngọt dựa kề Hòn Lan Vũng Bầu chếch ở phía Nam Vi Rồng, Phương Mới giăng ngang kia là Lố Ông, Mũi Đụn đã qua Gành Méc đã khỏi, Hà Ra hầu gần Tiếp theo là xóm Hội Vân Phong cảnh xoay vần đến mũi Lộ Giao Vũng Cù sóng bổ lao xao Nồm thổi ngọt ngào, ghe chạy thưng thưng An Dũ sâu cạn không chừng Lời đồn có miếu thổ thần linh ghê Tam Quan rày đã gần kề Đất này nổi tiếng Tân Khê nhiều dừa Nhớ lời thề thốt thuở xưa Tiếng hát mài dừa lảnh lói thâu đêm Tai nghe dạ xót niềm riêng Nhổ neo mà chạy hướng lên Sa Hoàng… (Vè các lái (hát ra) Chi tiết
Miền Nam, Cà Mau Vè, Thiên Nhiên,Muông Thú, U Minh nước đỏ Choại, dớn, cóc kèn Ăn ở cho hiền Dạo chơi với rắn Bất kỳ sâu cạn Rắn nước, rắn râu Bay trên trời cao Rắn rồng uốn khúc Chạy ngang chạy dọc Rắn ngựa phóng theo Hút gió thật kêu Là con rắn lục Mái gầm lục đục Bò chậm như rùa Mở xuống bất ngờ Hổ mây ẩn núp Coi chừng nó quất Là con rắn roi Ra đồng dạo chơi Là rắn bông súng Đựng đầy một thúng Là rắn cạp nia Ăn rồi ngâm nghe Hổ hành nấu cháo Dữ mà nhỏ xíu Đúng thiệt rắn giun Chớ nên coi thường Con rắn ri cóc Rắn mà muốn học Làm cậu ông Trời Có khách hay mời Là con hổ chuối Con rắn ri cá Thấy nước thì ham Hình vóc hiên ngang Rắn roi, mỏ rọ Thật là đáng sợ Chàm oạp, hổ mang Xét cho đàng hoàng Rắn thì có nọc Đừng châm, đừng chọc Bỏ mạng lìa đời Trí khôn con người Biến loài độc ác Lấy nọc làm thuốc Trị bệnh cứu dân Đau khớp trật gân Ê mình nhức mỏi Lại còn một mối Lấy thịt xé phay Chiều nhậu lai rai Bổ ơi là bổ! (Vè rắn U Minh) Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Giang, Vè, Ái Quốc,Lịch Sử,Chống Ngoại Xâm, Kể từ quân Pháp sang đây Hại người cướp của bấy nay đã nhiều Dân tình đồ thán đủ điều Căm gan tức chí phải liều ra tay Anh hùng đã tỏ tài trai Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang Nhớ xưa phất ngọn cờ vàng Bà Trưng, Bà Triệu chiến trường xông pha Cai Vàng lại có bà Ba Tây Sơn bà Phó cũng là anh thư Xúm tay xoay lại cơ đồ Dân yên quốc thịnh phất cờ Việt Nam Từ ngày quân Pháp kéo sang Chợ Tràng cô Tám cũng gan anh hùng Dưới trướng cụ Phan Đình Phùng Bắt quân lính tập vào tròng trăm tên Lại như vợ lẽ Đội Quyên Nam trang cải dạng tìm lên núi rừng Đúc súng đúc đạn, giúp chồng Đánh cho quân Pháp hãi hùng đảo điên Bà Ba Đề Thám truân chuyên Non sông đã trải mấy phen thác ghềnh Hồng quần nhẹ bước rừng xanh Trận tiền giáp chiến đao binh vẫy vùng Hồng nhan nhẹ bước thong dong Chính bà cũng dự quân trung luận bàn Bà Lang Seo mở ngôi hàng Giả đò hương khói đèn nhang bấy chầy Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây Nghĩa Hưng đảng ấy nay ngày một to Chuyện năm Canh Ngọ mới vừa Việt Nam dân đảng bấy giờ lập ra Chương trình định liệu gần xa Trước là dân tộc sau ra đại đồng Cô Giang cũng bực anh hùng Dốc tâm thề Đảng một lòng trung trinh Cùng ai thề chữ tử sinh Chưa chăn gối cũng vẹn tình sắt son Chia nhau việc Đảng lo tròn Tài chính cổ động lại còn giao thông Thất cơ sự đến khi cùng Tím gan Yên Bái, đau lòng xiết bao Thế gian mặc chuyện ra vào Lòng chung xin nguyện trời cao soi cùng Chàng theo nước, thiếp theo chồng Tuồng khi dơ dáng sống cùng hôi tanh Khen chê phó mặc sử xanh Treo gương đất nghĩa trời Kinh đời đời. (Vè cô Giang) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Nam, Vè, Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý Cũng vì thiện ý răn dạy người ta Biểu đừng kiêu sa vậy mà chịu chết Kể ra cho hết khắp cả hoàn cầu Châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ. Đông Dương một chỗ nay đặng bình yên Cờ bạc huyên thiên ăn chơi đủ việc: Chỗ thời hát xiếc chỗ hát cải lương Kẻ coi hát trường người coi làm thuật Núp nơi vắng khuất xì lác, móc gà Thín cẩu, công thoa bài cào tứ sắc Khắp cùng nam bắc đầu đĩ, ca đờn Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học. Mấy thằng cúp tóc mặc áo cẩm châu, Mấy thằng lái xe trừu cầu ràng đít Bấy thằng con nít bận áo thật sang Bấy chú đĩ đàng ngồi xe làm phách. Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình. Bão lụt thình lình.Phú Yên, Bình Định, Khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng. Người ta chết hung, Sông Cầu thứ nhứt, Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành, Nước lớn thình lình, ba ngày không dứt, Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao, Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói. Trời làm tai quái, năm sửu không mưa, Hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống, Ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông. Thập thất cửu không, trời làm quá thắt! Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu, Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo, Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn, Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ, Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn, Mấy con ca đờn, đói đi không nổi, Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường, Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất. Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà. Chạy gạo không ra. phải ăn hột cỏ! Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng! Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp! Không thời mạt kiếp,khó nỗi sanh tồn! Khó mà biết khôn, đừng dồn lấy dại! Chi tiết
Miền Trung, Quảng Nam, Vè, Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý Cũng vì thiện ý răn dạy người ta Biểu đừng kiêu sa vậy mà chịu chết Kể ra cho hết khắp cả hoàn cầu Châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ. Đông Dương một chỗ nay đặng bình yên Cờ bạc huyên thiên ăn chơi đủ việc: Chỗ thời hát xiếc chỗ hát cải lương Kẻ coi hát trường người coi làm thuật Núp nơi vắng khuất xì lác, móc gà Thín cẩu, công thoa bài cào tứ sắc Khắp cùng nam bắc đầu đĩ, ca đờn Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học. Mấy thằng cúp tóc mặc áo cẩm châu, Mấy thằng lái xe trừu cầu ràng đít Bấy thằng con nít bận áo thật sang Bấy chú đĩ đàng ngồi xe làm phách. Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình. Bão lụt thình lình.Phú Yên, Bình Định, Khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng. Người ta chết hung, Sông Cầu thứ nhứt, Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành, Nước lớn thình lình, ba ngày không dứt, Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao, Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói. Trời làm tai quái, năm sửu không mưa, Hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống, Ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông. Thập thất cửu không, trời làm quá thắt! Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu, Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo, Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn, Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ, Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn, Mấy con ca đờn, đói đi không nổi, Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường, Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất. Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà. Chạy gạo không ra. phải ăn hột cỏ! Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng! Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp! Không thời mạt kiếp,khó nỗi sanh tồn! Khó mà biết khôn, đừng dồn lấy dại! Chi tiết
Miền Trung, Quảng Nam, Vè, Thế Chiến, Lính Mộ Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, “mê-rô” ông sứ phát ra ngồi thở than. Vợ con châu lụy hai hàng, khuyên em ở lại cho chàng dời chơn. Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ chín mười từng ruột đau. Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời. Anh đi ra mặt biển chưn trời, khuyên em ở lại một lời bình an, Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua. Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra, Em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con. Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn, Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi. Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng. Chi tiết
Miền Trung, Quảng Nam, Vè, Thế Chiến, Lính Mộ Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, “mê-rô” ông sứ phát ra ngồi thở than. Vợ con châu lụy hai hàng, khuyên em ở lại cho chàng dời chơn. Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ chín mười từng ruột đau. Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời. Anh đi ra mặt biển chưn trời, khuyên em ở lại một lời bình an, Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua. Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra, Em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con. Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn, Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi. Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng. Chi tiết
Miền Trung, Quảng Nam, Vè, Thế Chiến, Lính Mộ, Xã Hội Từ ngày con bướm trắng bay vô, Ba năm trời hạn, cây khô lá vàng. Nấu cơm hấp những cọng lang, Chuối luộc đầy sàng ăn chẳng biết no. Nào ai có ruộng có bò, Mua mắc bán rẻ, bán cho nhà giàu. Ba quan một cái mâm thau, Nồi đồng quan tám, nhà giầu không mua. Mỗi năm lo nộp thuế vua, lương chẩn lương thải tới mùa phải ra. Con nít chí lẫn ông già, Ba ngày gạt gạo đi ra nằm đàng. Mười đồng một củ khoai lang, Trời làm đói khát thiếp với chàng xa nhau. Bất nhân là quân nhà giàu, Tôi đi ngõ trước, ngõ sau nó rào. Chị em gặp chẳng dám chào, giả lơ tai điếc : “mụ nào kêu chi” ? Tôi đây cũng đói mần ri, Chị tôi chết trước, tôi thì chết sau. Nhà giàu kêu đói như đau, Tự nhiên lúa củ năm sau hãy còn.(*) Muốn đi cưới vợ cho con, sợ chúng ăn hết, hoảng hồn thất kinh. Ba năm tự miếu chí đình, không cúng không quải, thần linh cũng hằn. Thợ rèn thợ mộc đói nhăn, Còn thầy phù thủy mất ăn xôi gà. Cho đến mụ bóng mụ bà, Thầy địa thầy thuốc nằm nhà chẳng có mà nhai. Bĩ cực rồi lại thái lai, Mùa lúa cũng được mùa khoai cũng dào. Ăn mừng hát bội xôn xao, Đi ra gặp mặt chị nào cũng vui... Chi tiết
Đại Chúng, Nói Ngược,Vui Nhộn,Tương Phản, Vè Nói Ngược Con chó hay trèo Con mèo hay cắn Xôi thịt thì đắng Bồ hòn thì hôi Thơm như tổ cú Đàn ông to vú Đàn bà rậm râu Hay gáy con trâu Hay bừ gà trống Của ta thì trọng Của chúa thì hèn Giấy bản thì đen Mực tàu thì trắng Mây mù thì nắng Mây trắng thì mưa …. Chi tiết
Miền Trung, Nghệ Tĩnh, Thói Đời,Khuyên Nhủ, Địt khỏi khu, tru khỏi ràn Chớ nghe mồm thiên hạ mà tàn hại nhau. Chi tiết
Miền Nam, Lục Tỉnh, Thói Hư,Tật Xấu,Rượu Chè,Bợm Rượu, Uống một ly nhâm nhi tình bạn Uống hai ly giải cạn cơn sầu Uống ba ly mũi chảy đầy râu Uống bốn ly ngồi đâu nói đó Uống năm ly cho chó ăn chè Uống sáu ly ai nói nấy nghe Uống bảy ly làm xe lội nước Uống tám ly chân bước chân quỳ Uống chín ly còn gì mà kể Uống mười ly khiêng để xuống xuồng Một xị giải phá cơn sầu Hai xị mũi chảy đầy râu Ba xị nằm đâu ngủ đó Bốn xị cho chó ăn chè Năm xị làm xe lội nước Sáu xị vợ rước về nhà Bảy xị ông bà chửi nát Tám xị ra đống rác nằm Chín xị lên băng ca Mười xị ra nghĩa địa Nhất xị mở mang trí hoá, Nhị xị giải phá thành sầu, Tam xị mũi chảy đầy râu, Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó, Ngũ xị cho chó ăn chè, Lục xị vợ đè cạo gió, Thất xị mua hòm để đó, Bát xị … cho nó chết luôn! (Vè Bợm Nhậu) Nguồn: Mai Huyền Chi Chi tiết
Miền Trung, Huế, Thừa Thiên Trang Phục,Ăn Mặc, Vè vẻ vè ve Nghe vè một áo Bận áo lơ muya (*) Đi giày cao gót Xách bóp tơ phơi Che dù cánh dơi Đi chơi Cụ Ngáo Ăn cháo không tiền Cổi liền lơ-muya! (Vè mốt áo) Chi tiết
Miền Nam, Kiên Giang, Ăn Uống,Gia Súc,Ẩm Thực,Tật Xấu, Nghe vẻ nghe ve (6) Nghe vè thịt chó Thằng nào xấu mặt Bắt nước cạo lông Thằng nào ở không Nạo dừa, rang đậu Thằng nào muốn nhậu Thằng nào muốn vô Thì ngồi chính giữa Thằng nào ói mửa Thì đạp xuống sàn Đánh lộn la làng Vì sàng thịt chó (Vè thịt chó) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Thói Hư,Tật Xấu,Ăn Uống, Vai mang xấp vải trong mo Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng Bánh in cùng những bánh bàng Bánh bò bông, bánh ít trần, ngon thay. Mít nghệ múi bằng cổ tay Bánh đúc chấm mật, bánh gai, bánh bèo Muốn ăn đừng có lo nghèo Tiền tui trong túi đem theo đủ dùng, Ăn một bụng ba mươi đồng Mua mấy thứ để cho chồng tui đây Vừa mới tới vuông đất cày Ngồi dưới gốc cầy lật nón ra ăn Làm vầy dạ cũng băn khoăn Vì chưng lỗ miệng muốn ăn không chừng (Vè Ăn Hàng) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Trị, Thổ Sản, Quê Hương, Đất Nước, Ẩm Thực Nem chợ Sãi, Vải La Vang Khoai Quán Ngang, Dầu tràm Đại Nại Mai phường Trúc Nước độc Kim Giao Gạo Phước Điền Chiêng Sắc Tứ Khoai từ Trà Bát Quạt chợ Sòng Cá bống Bích La Gà Trà Lộc Môn độn An Đôn Tôm đồng Mai Lĩnh Bánh ít Đạo Đầu Trầu nguồn Khe Gió Cỗ Trung Đơn Thơm Bồ Bản Nghệ vàng An Lộng Xôi thống Hải Thành Gạch Trí Bưu Lựu Triệu Phước (Vè Thổ Sản) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Con Gái,Hành Động, Con gái làng Sấu Hay cấu hay cào Cấu ra bờ rào Cấu vào chuồng lợn Nào ai có tợn Lấy gái làng này? Nó vác cả cày Ra đồng nó cấu Nó vác cả đấu Ra đồng nó đong Nó vác cả nong Ra đồng nó quạt Nó vác cả tháp Ra đồng nó xây Nó gói cả mây Bỏ trong giỏ nó Nó thắt khăn đỏ Nó múa gươm thần … (Vè con gái làng Sấu) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Khuyến Học,Bình Dân Học Vụ, Lẳng lặng mà nghe Cài vè học vụ Đồng bào mù chữ Ở khắp mọi nơi Chiếm chín phần mười Toàn dân đất Việt Muôn bề chịu thiệt Chịu đui, chịu điếc Đời sống vùi dập Trong vòng nô lệ Hơi đâu mà kể Những sự đã qua Chính phủ Cộng hòa Ngày nay khác hẳn Đêm ngày lo lắng Đến việc học hành Mấy triệu dân lành Còn đương tăm tối Bị đời hất hủi Khổ nhục đáng thương Ngơ ngác trên đường Như mù không thấy Những điều như vậy Không thể bỏ qua … (Vè bình dân học vụ) Chi tiết
Miền Nam, Đồng Tháp, Bánh Trái,Ẩm Thực,Quảng Cáo, Vè vẻ ve ve Nghe vè kẹo kéo Mần thiệt là khéo Ai thấy cũng thèm Ai thấy cũng khen Rằng kẹo Sa Đéc Người nào chưa biết Quảng cáo là mua Cô bác ông bà Xin mời ăn thử Ngon hay là dở Cứ việc chê khen Có bán có thêm Đồng xu một miếng Ai trả hai tiếng Sáu miếng năm xu Ai trả lu bù Thì tui không bán Thợ khéo thượng hạng Không phải lôi thôi Đậu không thúi hôi Bánh phồng thiệt xốp Mật đường đem lược Không cặn không ruồi Ai ăn kẹo rồi Thì ghiền kẹo kéo Ai thường lui tới Cũng phải mua về Kẹo ngon rẻ rề Nổi danh khắp chốn Không cần hao tốn Mà có kẹo ngon Mua cho bà con Cùng là giòng họ Bán không mắc cỡ Tui bán sạch trơn Tui xin cảm ơn Ai mua kẹo kéo Sa Đéc xứ khéo Mần kẹo thiệt tài Ăn hủy ăn hoài Ai mua kẹo kéo… (Vè kẹo kéo Sa Đéc) Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Chợ Búa,Buôn Bán, Trầu, chè, thơm, mít chợ Động Tôm, cua, cá bống chợ Chè Cam, quýt, đậu, mè chợ Trạm Chim, ốc, hến, rạm chợ Thùi Bún thịt heo tràn đầy chợ Tréo Cá biển khắp nẻo chợ Tuy Thu, ngừ, mực, nuốt chi chi chợ Cưỡi Sắn, khoai, mật ong, thị, ổi chợ Mỹ Đức Ai về Lệ Thủy mặc sức tiêu tiền (Vè chợ Lệ Thủy) Chi tiết
Miền Trung, Con Gái,Hư Thân,Mất Nết, Đầu hôm ngủ tới canh tư, Còn nằm mà ngủ, muỗi thì nó cắn dư cả vùa Canh năm thì dộng trống chùa, Còn nằm mà ngủ, chúng lùa một bên Ngủ thì quên tuổi, quên tên, Ngủ cho mặt trời mọc đã lên ba sào Sáng ra đái dựa hàng rào, Còn đương ngây ngủ té nhào trong gai Quét nhà long mốt long hai, Con mắt dáo dác thấy trai ngó chừng Bày ra cắt áo, cắt quần, Cắt không kích tấc, nhằm chừng cắt ngang Vải thời một tấc một quan, Cắt thời khoét lỗ khoét hang đâu còn Bày ra bánh cục bánh hòn, Nắn bằng chiếc đũa, hấp còn bột không Sáng ra đi cấy vần công, Cấy thưa cấy nổi đi không về rồi Bày ra cháo vịt, cháo bồi, Cháo không có xác ăn rồi nhả ra Từ nay cho tới hăm ba, Cậy mai tới nói người ta không thèm Chị em thấy vậy nói gièm, Nấu canh chua tợ như hèm khó ăn Làm bộ líu lăng, Bánh bò, bánh thuẫn Làm không mí mửng, Lớp trọc lớp đen Sang qua bánh men, Thiệt là chai ngắt Làm bộ ngoe ngoắc Đi hấp bánh gừng Quạt lửa phừng phừng Mặt vàng như nghệ Uổng công bốn bể Học lúc văn minh Nghĩ lại phận mình Thiệt là thưa thớt (Vè con gái hư) Chi tiết
Đại Chúng Nói Ngược,Vui Nhộn,Tương Phản, Nghe vẻ nghe ve Nghe vè nói ngược Nắng hạn đầy nước Mưa dầm khô rang Đám cưới đình làng Kì yên ngoài chợ Nhà giầu khất nợ Nhà nghèo cho vay Đàn bà đi cày Đàn ông đi cấy Ghe nổi thì đẩy Ghe cạn thì chèo Nuôi chuột bắt mèo Nuôi heo lấy trứng Xu xoa thì cứng Đá núi thì mềm Trời nắng về đêm Ban ngày sao mọc (Vè nói ngược ) Chi tiết
Miền Trung, Nghệ Tĩnh, Tướng Mạo, Dáng Điệu Ngồi trục cúi quá tai, Đi hai cẳng xéo khoai. Đáng mặt trai Khố Nội, Ra dáng ngài Khố Nội. Chi tiết
Đại Chúng, Huênh Hoang,Nói Ngược, Anh mong tát biển cấy kê Tát sông Bồ Ðề nhổ mạ cấy chơi Bẻ que đo Trời Đan lồng nhốt kiến Thầy mẹ thương đến Bắt voi coi giò Thầy mẹ gả cho Rước voi làm lễ Anh đi làm rể Che hai lọng vàng Nhà anh thì ở giữa làng Lấy vàng làm cột Giạt bạc làm tranh Cưa gỗ lim làm thành Chẻ ngà voi làm lạt Anh đặt chuyện hát Nói láp em nghe, Nhà anh cột nứa, kèo tre.. Chi tiết
Đại Chúng, Hiện Tượng,Thiên Nhiên,Nông Tang, Trời làm tháng sáu giá chân Tháng một nằm trần nóng đổ mồ hôi Con chuột kéo cày lồi lồi Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong Vườn rộng thì thả rau rong Ao sâu giữa đồng vãi cải làm dưa Con bò đi tắm ban trưa Một đàn con vịt cày bừa ruông nương Con voi nằm ở gầm giường Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn Chuồn chuồn thấy cám liền ăn Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua Trời mưa cho mối bắt gà Thòng đong con cấn đuổi cò lao xao Lươn nằm cho trúm bò vào (*) Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô Thóc giống cắn chuột trong bồ Lá lúa lá mạ đuổi vồ chân trâu Chim chích cắn cổ diều hâu Gà con tha qua biết đâu mà lần Cầy cáo thì đuổi chó săn Một đàn con chuột đuổi ăn con mèo Chi tiết
Miền Trung, Quảng Bình Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc Tượng nghe: Nước có nguồn, cây có gốc Huống chi người có da, có tóc Mà sao không biết chúa, biết cha? Huống chi người có nóc có gia Mà sao không biết trung biết hiếu Hai vai nặng trĩu Gánh chi bằng gánh cang thường Một dạ trung lương Gồng chi bằng gồng xã tắc Bớ những người tai mắt Thử xem loại thú cầm: Trâu ngựa dòng điếc câm Còn biết đền ơn cho nhà chủ Muông gà loài gáy sủa Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi Huống chi ta: Chưn đạp đất, đầu đội trời Ở chi thói sâu dân mọt nước! Sao chẳng nghĩ sau nghĩ trước Lại làm thằng nghịch thằng gian Sao bằng trai trí chúa an bang Sao bằng trai thừa gia khai quốc Lẽ phải thời: Trải gan trung, bồi nghĩa mật Đền ơn thuở trong bụng mẹ mười tháng sanh ra Lẽ phải thời: Vợ thúc chồng, con giục cha Đền thuở ở đất vua, nắm rau, mớ ốc Thậm tiếc bấy: Những tay tham lợi muốn yên mình Đành để tiếng vong tiên bội tổ Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ? Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào? Lòng sao không xót, dạ sao không bào? Bờ cõi loạn, nhơn dân đổ thán Mình nước Hớn, mẹ cha nước Hớn Hỏi chớ nào thảo nào ngay? Thù Tây rồi lại ở với Tây Hỏi chớ nào tôi nào chúa? Bởi mình mảng tham lam tiền của Để cho Tây bắt vợ giết chồng Bởi mình tham, ham hố bạc đồng Để cho Tây lột da khỏ óc Thân sao không biết nhục? Vinh vang chi cũng lấy tiếng Tây Sung sướng khó trọn đời Cảm thương kẻ nó hành nó hiếp Xóc tóc cúp đầu Cám thương người nó móc nó treo Hành thân hoại thể Nghĩ thương không xiết kể Giận nói chẳng hay cùng Giận những phường bất hiếu bất trung Thương những kẻ oan con oan vợ Thương gã chệch đêm nằm không ngủ Nóng gan son ra lập nghĩa đường Giận thằng Tây chẳng giữ phong cương Sống u mê theo tuồng tả đạo Trách những kẻ lòng muông dạ cáo Sống hư hèn sửa trấp nưng khăn Thương những tay bảng quế trung thần Thủa gan dạ thẻ ngời bia tạc Làm người sao khỏi thác Thác trung thần, thác cũng thơm danh Làm người ai chẳng tham sanh Lòng địch khái xin cho rỡ tiết Đêm năm canh thương người chánh liệt Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung trinh Chốn biên thuỳ lãnh ấn tổng binh Cờ đề chữ “Bình Tây đại tướng” Trước trí quân ư Nghiêu Thuấn thượng Sau vi xã tắc lương thần Phải cạn lời rao khắp muôn dân Sửa tấc dạ dìu về một mối Ai chẳng ra thú trước Ắt phải luỵ về sau Bớ trẻ già bé lớn đâu đâu Kíp bội ám đầu minh tua gắng Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng Nương lòng trời cứu lũ sanh linh Phải cạn lời tỏ hết chơn tình Cho con trẻ dân đen đều biết Kẻ nào còn vi ngược trợ Kiệt Mũi thiên oai nhất quyết không dung. (Vè đánh Tây ) Chi tiết
Miền Đông, Sài Gòn, Quê Hương, Địa Danh, So Sánh, Tương Đồng, Chợ Búa, Nghe vẻ nghe ve Nghe vè cái chợ Sáng mơi xách rổ Đi giáp một vòng Hàng hóa mênh mông Kêu bằng Chợ Lớn Thiên hạ phát ớn Là chợ Bình Đông Ấm bụng no lòng Kêu bằng Chợ Gạo Thiệt là huyên náo Là chợ Bến Thành5 Xúm nhau giựt giành Là chợ Bến Tranh Ăn ở hiền lành Đi chợ Thủ Đức Tối mò như mực Là chợ Gò Đen Cẳng bước không quen Là chợ Gò Vấp Khỏi lo đèn tắt Đi chợ Gò Dầu Sợ má đợi lâu Đi chợ Bà Quẹo Không trì cũng kéo Là chợ Bến Tre Chợ gì vắng hoe Kêu bằng chợ Đũi Ăn mặn như muối Là chợ Cầu Kho Nấu nướng khỏi lo Là chợ Xóm Củi Coi chừng lửa khói Là chợ Lái Thiêu Vắng mẹ nó kêu Là chợ Bến Nghé Ai mà đau khổ Đi chợ sầu riêng18 Gục xuống gục lên Kêu bằng chợ ế Đạp nhằm quỵ té Là chợ Cần Chông Rượt chạy lòng vòng Là chợ chồm hổm Làm ăn yên ổn Là chợ Biên Hòa Hay hát dân ca Là chợ Phước Lý Toàn là thi sĩ Là chợ Cần Thơ Nó cắn ơ hờ Là chợ Rạch Kiến Vừa nói vừa nghiến Là chợ Cái Răng Ăn uống lăng xăng Đâu bằng chợ Quán Người ưa bàn tán Ra chợ Bùng Binh Không dính trong mình Là chợ Cần Giuộc Muốn gặp Trời Phật Đi chợ Long Hoa Phơi lúa mau khô Thì đi chợ Đệm Rờ êm như nệm Là chợ Sài Gòn Đàn bà chết chồng Xuống chợ Rạch Giá Không ăn thịt cá Ra chợ Hà Tiên Cho người tới biên Là chợ Bến Thuế Tướng sĩ xe pháo Là chợ Bàn Cờ Vợ bỏ bơ vơ Chợ Cầu Ông Lãnh Người nào cũng bảnh Là chợ Cái Cơm Khỏi lo bần cùng Đi chợ Phú Quới Chưa đi đã tới Là chợ Cà Mau Chẳng được ngọt ngào Là chợ Đà Lạt Ngứa gãi sột soạt Là chợ Hóc Môn Nghe kêu hết hồn Là chợ Trà Cú Xe chạy ngắc ngứ Là chợ Gò Công Đi giáp một vòng Cũng chưa hết chợ Thiệt là đáng sợ Là cái chợ trời Ai biết xin mời Tiếp theo vè chợ. Chi tiết
Miền Trung, Bài Bạc Nghe vẻ nghe ve, Nghe vè bài tới Cơm chưa lập xới Trầu chửa kịp têm Tao đánh ba đêm Thua ba tiền rưỡi Về nhà chống chửi: Thằng Móc, thằng Quăn, Đánh sao không ăn Mà thua lắm bấy? Tui lấy tiền cấy Cho đủ mươi ngày Bảy Thưa, Bảy Dày Cùng là Ngạt kéo Chị em khéo léo, Dễ mượn dễ vay Thân tui ngày rày Dầm mưa dãi nắng Chị em có mắng Tôi cũng ngồi đây Nó là tuồng dày Nó cũng a dua Ăn thì tôi vùa Thua thì tôi chịu (Vè bài tới) Chi tiết
Miền Nam, Ve, Nói Ngược, Chim chích cắn cổ diều hâu , Gà con tha quạ biết đâu mà tìm Chi tiết
Ve, Buôn Bán,Rao Hàng,Quảng Cáo, Ai mua chiếu hông Chiếu bông chiếu trắng Chiếu vắn chiếu dài Chiếu dệt lầu đài Cổ đồ bát bửu Chiếu tây hột lựu Da lợn bông bao Chiếu rộng màu cau Con cờ, mặt võng Dệt bông chong chóng Ngũ sắc, bá huê Đẹp hết chỗ chê Ngôi sao, tùng lộc Chiếu trải giường hộc Chiếu trải giường Tàu Chiếu trải giường trước Chiếu trải giường sau Chiếu nào cũng có đủ Trong gia chủ ai muốn mua thì mua (Vè bán chiếu) Chi tiết
Đại Chúng, Tục ngữ, A9n Uống, Ứng Xử, Thấy người ta ăn khoai vác mai chạy quấy (đi đào) Chi tiết
Đại Chúng, Tục ngữ, Đạo đức Thí một chén nước phước đức đầy non Chi tiết
Đại Chúng, Tục ngữ, Đạo Đức, Ứng Xử, Thí một chén nước, Phước chất bằng non Chi tiết
Miền Trung, Tục ngữ, Đạo Đức, Tín Ngưỡng, Tôn Giáo Thứ nhứt là tu tại gia Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa Chi tiết
Đại Chúng, Tục ngữ, Ứng Xử, Vui Sướng, Hạnh Phú, Cảm Xúc, Vui đâu chầu đấy Chi tiết
Đại Chúng, Tục ngữ, Ứng Xử, Đời Sống,Tương Quan, Bần tiện bất năng di Uy vũ bất năng khuất Chi tiết
Đại Chúng, Tục ngữ, Đời Sống, So Sánh, Tương Quan, Cầm đũa tay chiêu đập niêu không vỡ Chi tiết
Miền Bắc, Hà Nội Tục ngữ, Thức Hạng, Quê Hương, Đất Nước, Địa Danh, Nhất Mỗ , nhì La, thứ ba Canh Cót Chi tiết
Miền Bắc, Hà Nội Tục ngữ, Ứng Xử, Đời Sống,Tương Quan, Mua mâm thì bà đâm cho thủng, Mua thúng thì bà đựng cho mòn Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Giang, Tục ngữ, Địa Danh, Trống Chờ, chuông Chõ, mõ Phù Lựu Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Ninh, Tục ngữ, So Sánh, Tương Quan, Quê Hương, Đất Nước, Địa Danh, Chiêng Chè, trống Trụ, mõ Phù Lưu Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Ninh, Tục ngữ, So Sánh, Tương Quan, Quê Hương, Đất Nước, Địa Danh, Chiêng Dầm, khoán Sộp, mõ Me Lệnh Bèo, trống Mấc, còn e dọ Cời Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Ninh, Tục ngữ, So Sánh, Tương Quan, Quê Hương, Đất Nước, Địa Danh, Chiêng làng Đống, Trống Hán Đà, Tù và Quảng Lãm Chi tiết
Đại Chúng, Tục dao Vợ Chồng,Dâm Ý, Mù u ẩn lá mù u Vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa. Chi tiết
Đại Chúng, Tục dao Tình Dục,Gia Đình, Nước nóng đổ lọ (miệng) bình vôi Tôi ngồi tôi nghĩ bố (tía) tôi, tôi buồn, Bố (Tía) tôi dở dại, dở khôn Say mê cái lồn (tinh chồn) bỏ mẹ con tôị Chi tiết
Đại Chúng, Tục dao Than Trách,Tính Nết,Chế Giễu,Vỡ Mộng, Ai ai cũng tưởng bậu hiền (2) Vừa rờ tay bậu, bậu nghiền nát thây Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Đời Sống, Con Người, Thân Phận, Trượt vỏ dưa gặp vỏ dừa Chi tiết
Miền Bắc, Thái Bình, Tục Ngữ, Quê Hương, Địa Danh, Cha Mẹ, Con Người, Đã là con mẹ con cha, Dừng mình ở đất Ba Gia, Lỗ Trường Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Thế Thái,Cảm Xúc,Thói Đời, Thương nhau cho nhau ăn cháy Ghét nhau nói nhau cạy nồi Chi tiết
Miền Bắc, Vĩnh Phúc, Tục Ngữ, Gia Súc, Cha Mẹ, Gà đen chân trắng Mẹ mắng cũng mua Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Ngôn Ngữ,Tính Nết, Thanh Sắc Người thanh tiếng nói cũng thanh Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Cha Mẹ, Tính Nết, Con Cái Cha mẹ sinh con, trời sinh tính Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Xử Thế, Thói Đời, Tật Xấu Chân mình thì lấm mê mê Đi cầm bó đuốc mà rê chân người Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Phần Số, Hôn Nhân, Lấy Chồng Chê thằng một chai, lấy thằng hai lọ Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Đi Lại, Cẩn Thận, Hành Động Đi thì phải đi đến nơi Về thì phải về đến chốn Chi tiết
Vĩnh Phúc, Tục Ngữ, Nghề Nghiệp Mộc Tứ Xã, ngõa Hương Canh Chi tiết
Vĩnh Phúc, Tục Ngữ, Nghề Nghiệp, Phẩm Chất Đất chỉ vàng, làng cò trắng Chi tiết
Miền Bắc, Nam Định Tục Ngữ, Quê Hương, Đất Nước, Địa Danh, Xứ Đông Bạch Sam, xứ Nam Hành Thiện Chi tiết
Miền Bắc, Nam Định Tục Ngữ, Quê Hương, Đất Nước, Sinh Tử, Chốn Ở, Sinh Tức Mặc thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc Chi tiết
Miền Bắc, Nam Định Tục Ngữ, Quê Hương, Đất Nước, Sinh Tử, Chốn Ở, Sinh Tức Mặc thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc Chi tiết
Miền Bắc, Nam Định Tục Ngữ, Quê Hương, Đất Nước, Địa Danh,Hành Chính,Hán Việt Nam Chân thất Cổ, Giao Thủy lục Hoành Chi tiết
Miền Bắc, Nam Định Tục Ngữ, Quê Hương, Đất Nước, Địa Chí, Hán Việt, Nam Chân thất Cổ, Hải Hậu cửu An Chi tiết
Miền Bắc, Nam Định Tục Ngữ, Quê Hương, Đất Nước, Địa Chí, Hán Việt, Đông Cồn Quay, cồn Bẹ, Tây núi Lẹ, Thần Phù Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Thiên Nhiên, Nguyệt khuất non đoài Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Ứng Xử,Đời Sống Mắt ngơ tai lấp Chi tiết
Đại Chúng, Tục Ngữ, Ứng Xử,Đời Sống Một miệng thì kín, chín miệng thì hở Chi tiết
Miền Bắc, Bắc Giang, Tục Ngữ, Địa Danh,Đặc Sản,Ẩm Thực,Ăn Uống, Rau cải Tiếu, nấu nước điếu cũng ngon Chi tiết

Page 4 of 405 ;

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân , Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/22/17