Chồng chung khó lắm ai ơi!
Ai bước chân vô đó,
Không ăn ngồi được mô!
Quyền bán với quyền mua
Thời là em không có,
Đâm gạo với xay ló,
Thời là em đã có phần,
Đập đất với khiêng phân,
Đâm xay, rồi nấu nướng.
…
Gẫm như bọn người ở,
Chỉ sáu tháng thời thôi,
Cái thân em ở đời,
Hỏi làm sao chịu được?
Chồng sai đi múc nước,
Vợ bảo lấy que tăm.
Trải chiếu toan đi nằm,
Đọi dì hai chưa rửa
Có ba bốn thúng lúa,
Chị chồng đầu chân xay.
Cám em bắc lên đây,
Cây rau riu chưa cắt,
Ngọn rau riu chưa xắt.
Em làm công việc vặt,
Vừa đến tối canh ba,
Em vừa ngả mình ra,
Con chim kia vừa kêu,
Con gà rừng vừa gáy.
Chồng đánh em thức dậy,
Biểu nấu cơm đi cày;
Gạo em chưa đâm xay,
Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ.
Một tháng sáu phiên chợ,
Bà cho đi một phiên,
Bà trao cho một tiền,
Bà truyền cho đủ giống,
Mua mười đồng thì trứng,
Lại mua mười đồng trầu,
Mua mười tám đồng cau,
Hai mươi đồng thì mỡ,
Lựa còn một chữ,
Tráo lại hàng vôi
Mua đoạn, bán rồi
Vừa hầu tan buổi chợ
Về đến đầu ngõ,
Con đòi: “Bánh mẹ mô?”
– Được chồng riêng tê tồ
Chồng chung, mẹ nỏ dám mua thứ gì!
(Vè chồng chung)
Năm nay kinh tế
Không tiền đóng thuế
Lính bắt, lính còng
Vợ con khóc ròng
Mấy ông thiệt tệ
Tháng này thuế vụ không lo
Cơm ăn không no
Tiền đâu mà đóng
(Vè chống thuế)
Thân tôi coi vịt cực khổ vô hồi
Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần
Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận
Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây
Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng
Vịt chạy qua bờ
Ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn
Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa
Vịt ăn
Ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau
Vịt chạy
Đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc
Tối về nhà đèn chưa tắt
Như đãi yến công nương
Ngày ra tới đứng ngoài đường,
Chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại.
(Vè chăn vịt )
Lía ta nổi tiếng anh hào
Sơn hà một góc thiếu nào người hay
Bạc tiền thừa đủ một hai
Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
Làm cho bốn biển anh hùng
Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
Kẻ nào tàn ác lâu nay
Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
Nhất nhì những bực nhà quan
Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
Nhà nào nhiều bạc dư tiền
Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
Tuy chàng ở chốn non đầu
Nhưng mà lương thực vật nào lại không
Lâu la ngày một tụ đông
Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
Mọi người trên dưới trong ngoài
Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
Tiếng tăm về đến trào đàng
Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
Nam triều chúa ngự ngai vàng
Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
Có quan ngự sử bày phô
Tâu lên vua rõ lai do sự tình
Đem việc chàng Lía chiêu binh
Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
Nào khi Lía phá xóm làng
Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
Kể tên những bậc phú hào
Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
Vua ngồi nghe rõ một hai,
Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
– Dè đâu có đứa gian tà
Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
Truyền cho mười vạn binh hùng
Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
Gập ghềnh bao quản núi non
Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. …
(Vè chàng Lía)
Một chén giải cơn sầu
Hai chén còn nhơn đạo
Ba chén còn gượng gạo
Bốn chén nổi sân si
Năm chén sập thần vì
Sáu chén ngồi ghì xuống đó
Bảy chén thì đuổi chẳng đi
Tám chén lóc trộn lộn ra
Chín chén lóc trộn lộn vô
Mười chén ai xô tôi ngã
Mười một chén chửi cha ai xô
(Vè bợm nhậu)
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua …
(Vè bình dân học vụ)
Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát
Ai mà hảo ngọt
Thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan
Này là bánh tét
Còn như bánh ếch
Để mấy ông câu
Hủ lậu từ lâu
Thì ưa bánh tổ
Mấy tay hảo võ
Bánh thuẫn sẵn sàng
Các thứ bánh bàn
Kính như chấp bút
Ai năng thống phúc
Nên đụng bánh gừng
Còn bánh ếch trần
Cu li chia lấy
Kẻ nào trồng rẫy
Thì sẵn bánh khoai
Mấy gã uống say
Bánh men rất quý
Này bánh bao chỉ
Để các thợ may
Má phấn bông tai
Thì ưa bánh dứa
Những người thổi lửa
Thì có bánh phồng
Bánh kẹp bánh còng
Để cho đạo tặc
Còn bánh quai vạc
Đạo chích muốn ăn
Ai thích thoát giang
Thì ăn bánh lọt
Trôi nước rất ngọt
Để các thuyền chài
Dầm mưa hoài hoài
Thì ăn bánh ướt
Bất toại vô chước
Thì ăn bánh bò
Những kẻ hay lo
Ăn bánh tai yến
Ai ham trồng kiểng
Có bánh bông lan
Còn như bánh tráng
Để hạng trai tơ
Mấy ả giang hồ
Bánh bèo sẵn đó
Ai mà mặt rỗ
Thì bánh chôm chôm
Tay xách nách ôm
Bánh bao khá ních
Mấy tay hàng thịt
Da lợn để dành
Còn trã bánh canh
Để ba chú lính
Chủ nhân Lục tỉnh
Thì có bánh in
Đầu bếp mấy tên
Phải ăn bánh rế
Này là bánh nghệ
Cho chị nằm nơi
Kẻ dệt lụa tơ
Bánh tằm sẵn để
Còn như bánh quế
Mấy đấng y sanh
Tọc mạch rành rành
Thì ăn bánh hỏi
Hễ là thầy bói
Thì ăn bánh quy
Mấy ổ bánh mì
Cho nhà nho nhã
Quảng Đông mấy gã
Ăn bánh cà na
Béo thịt thẳng da
Thì ăn bánh ú
Rộng đường mấy chú
Như để sẵn đây
Phật giáo mấy thầy
Xin ăn bánh cúng
Phận tôi lúng túng
Trái đất tôi giành
Ai có lanh chanh
Tôi cho bánh khọt
(Vè bánh trái I)
Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu
Vô lửa nổi u
Ðó là bánh phồng
Ðem thả giữa dòng
Ðó là bánh neo
Ra nắng dẻo queo
Ðó là bánh sáp
Không ai dám xáp
Ðó là bánh xe,
Xỏ lại tréo que
Ðó là bánh rế
Ăn rồi còn ế
Ðó là bánh dừa
Ăn không có chừa
Ðó là bánh tiêu
Ðể lâu nó thiu
Vốn là bánh ướt
Chưa ăn giấu trước
Nó là bánh cam
Bỏ vô khám giam
Ðó là bánh còng
Ôm ấp vào lòng
Nó là bánh kẹp
Xem coi thật đẹp
Ðó là bánh chưng
Chồng nói mới ưng
Ðó là bánh hỏi
Ðêm nằm mệt mỏi
Ðó là bánh canh
Kéo níu từng khoanh
Ấy là bánh tét
Ráp lại từng nét
Nó là bánh gừng
Bước lên có từng
Ðó là bánh cấp
Nằm ngủ dưới thấp
Là bánh hạ nhân
Mình nó trợt trơn
Ấy là bánh lọt
Ăn thơm mà ngọt
Là bánh hoa viên
Ăn khỏi trả tiền
Ðó là bánh bao
Ðem liệng đàng sau
Là bánh quai vạc
Trắng trong như bạc
Là bánh xu xê
Mặt tràng ê hề
Ðó là bánh bún
Mình đen lốm đốm
Là bánh hạt mè
Thấy ai cũng kè
Ðó là bánh dập
Người thích mặt chắc
Ðó là bánh dày
Nói nghe rất hay
Ðó là bánh mật
Bụng no ấm cật
Ðó là bánh âm
Mình mẩy trắng trong
Là bánh bột lọc
Ai cũng mời mọc
Là cái bánh trôi
Ðứng không thấy vui
Ðó là bánh bò
Nằm cứ co ro
Ðó là bánh cuốn
Cái gì cũng muốn
Nó là bánh đa
Dứt hoài không ra
Nó là bánh dẻo
Nổi trôi khắp nẻo
Ðó là bánh bèo
Giàu mãi không nghèo
Chính là bánh khoái
Ðược người ưu đãi
Là bánh phồng phềnh
Nhẹ mỏng và mềm
Ðó là bánh cốm
Áo quần lốm đốm
Nó là bánh gai
Một giống như hai
Chính là bánh đúc
Tròn cho một cục
Ðó là bánh vo
Ăn hoài không no
Ðó là bánh vẽ
Dùng cho lính trẻ
Là bánh chè lam
Ăn uống tham lam
Ðó là bánh ú
Ði mấy không đủ
Ðó là bánh giò
Từng đoạn quanh co
Ðó là bánh khúc…
(Vè bánh trái (II))
Ai mua chiếu hông
Chiếu bông chiếu trắng
Chiếu vắn chiếu dài
Chiếu dệt lầu đài
Cổ đồ bát bửu
Chiếu tây hột lựu
Da lợn bông bao
Chiếu rộng màu cau
Con cờ, mặt võng
Dệt bông chong chóng
Ngũ sắc, bá huê
Đẹp hết chỗ chê
Ngôi sao, tùng lộc
Chiếu trải giường hộc
Chiếu trải giường Tàu
Chiếu trải giường trước
Chiếu trải giường sau
Chiếu nào cũng có đủ
Trong gia chủ ai muốn mua thì mua
(Vè bán chiếu)
Nghe vẻ nghe ve (4)
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp xới
Trầu chưa kịp têm
Tôi đánh một đêm
Thua ba đồng rưởi
Về nhà chồng chửi
Nói rằng đau máu
Ăn sáu chén cháo
Chồng đơm không kịp
Ăn một cặp bồ câu
Một đầu cá nhám
Một đám rau lang
Một sàng bánh đúc
Một xách rau rừng
Một cặp bánh chưng
Còn la lưng lửng
(Vè bài tới)
Bài chòi bài tới là ba mươi lá
Dang tay xớn xá là cái gã Ông Ầm
Hay đi sụp hầm, là anh Tứ Cẳng
Một dề trăng trắng, là chị Bạch Huê
Ăn cận nằm kề, là anh Chín Gối
Ba chìm bảy nổi, là chị Sáu Ghe
Lập bạn lập bè, là anh Năm Dụm
Hay đùm hay túm, Tứ Xách đã quen
Quần áo lèng teng, Nhì Nghèo cực khổ
Hay bươi hay mổ, là chị Ba Gà
Có ngạnh có ngà, là anh Tứ Tượng
Phủ màn treo trướng, là chị Tám Dừng
Ướt áo ướt quần, là anh Ngũ Trợt
Rung cây không rớt, Tứ Móc thiệt hay
Con mắt nhắm ngay, Tam Quăng thiệt giỏi …
(Vè bài chòi)
Lẳng lặng mà nghe
Cái vè xin thuế
Mùa màng mất tệ
Buôn bán không ra
Kẻ gần người xa
Cũng nghèo cũng khổ
Hai đồng xâu nọ
Bảy ngày công sưu
Cao đã quá đầu
Kêu đà ngắn cổ
Ở đâu ở đó
Cũng rúc mà ra
Kẻ kéo xuống Tòa
Người nằm trên tỉnh
Đông đà quá đông
Trong tự Hà Đông
Ngoài từ Diên Phước
Đại Lộc xin trước
Duy Xuyên, Quế Sơn
Thăng Bình, Hòa Vang…
Huyện mô cũng có
Lạy quan bảo hộ
Dân thiệt cơ hàn
Phải tới kêu van
Nhờ ơn chuẩn giám
Đứa thời lởm chởm
Đùm muối đùm cơm
Đứa chạy lơm xơm
Bọc khoai, mang gộ
Quần thì đóng khố
Áo chí mông tròn
Hình tợ châu ôn
Dạng như Phật đất
Trong Tòa cũng chật
Nằm tới ngoài đàng
Từ phố Hội An
Đến sông Chợ Củi
Kêu nghèo, kêu đói
Xin thuế, xin xâu
Có kẻ cúp đầu
Người thì dài tóc
Đi ngang, đi dọc
Kéo vô, kéo ra
Miệng nói: “Chu choa!”
Lòng thời tở mở
Thằng xâu thuế chợ
Cũng đánh chạy tan
Ông cai đắp đàng
Sợ đều trốn phứt
Ban đầu la cực
Sau lại làm hung
Vì kẻ lung tung
Bắt người sậm sực
Nhộn nhộn nhựt nhựt
Túi búi tăng băng
Kẻ tống dù đen
Người mang trát đỏ
Các quan sức tỏ
Tất cả vọng hô
Từ dân trấn vô
Bất tuân trong dạ
Lạ đà quá lạ
Kinh cũng quá kinh
Trong réo lãnh binh
Ngoài khiêng tri phủ
Có quan tổng cũ
Cũng trấn nước nhầu
Xin thuế xin xâu
Sao hung chi dữ
Từ tỉnh, từ sứ
Chí huyện, chí nha
Thấy những người ta
Nằm thôi chật nức
Sứ đà hiểu sức
Biểu nhau kéo về
Dân cũng chẳng nghe
Cứ việc nằm đó
Lính kêu khố đỏ
Đánh bể mật xanh
Kẻ thì dập mình
Người kêu bể trốc
Mấy anh đầu trọc
Cũng xiểng mang tai
Mấy chú tóc dài
Cũng đơ cán cuốc
Súng dộng rật rật
Roi quất vo vo
Ai cũng tự do
Khôn bề độc lập
Tòa tư ra gấp
Bộ kéo về liền
Tỉnh có quan phiên
Người về hiểu trấp
Hai trăm lính tập
Quan một, quan hai
Súng đạn hẳn hòi
Quan gia minh bạch
Cúp thì trốn sạch
Miệng hết nói vông
Gần sông xuống sông
Gần núi lên núi
Kẻ rúc vô bụi
Người chui vô rừng
Bắt đánh tưng bừng
Bắt đi lịu địu
Vợ chồng bận bịu
Cha mẹ thiết tha
Kẻ giải xuống tòa
Người giam trên phủ
Thuế đà đến vụ
Xâu đã đến kỳ
Chẳng thấy giảm chi
Sao không xin nữa?
(Vè Xin Xâu)
Quan tướng là quan tướng dai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước còn khi êm êm
Canh sau thua thiệt ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi thò tay móc lọ
Cái ngoảnh lại chuyện trò tỉnh say
Được thời đàn hát cũng hay
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình
(Vè Tổ Tôm, Xóc Đĩa)
Nem chợ Sãi,
Vải La Vang
Khoai Quán Ngang,
Dầu tràm Đại Nại
Mai phường Trúc
Nước độc Kim Giao
Gạo Phước Điền
Chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát
Quạt chợ Sòng
Cá bống Bích La
Gà Trà Lộc
Môn độn An Đôn
Tôm đồng Mai Lĩnh
Bánh ít Đạo Đầu
Trầu nguồn Khe Gió
Cỗ Trung Đơn
Thơm Bồ Bản
Nghệ vàng An Lộng
Xôi thống Hải Thành
Gạch Trí Bưu
Lựu Triệu Phước
(Vè Thổ Sản)
Thương thay, hỡi các chú ơi
Ăn uống đã rồi thầy kể một văn:
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm,
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề ngăn ngăn
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú nào còn sống về nhà đại minh
Ai ai là chẳng đeo tình
Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cô hồn
Chú nào có vợ có con
Có cha có mẹ hãy còn giỗ chung
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông
Nam Kinh, Quảng Bắc có lòng sang đây
Trời làm một trận gió lay,
Sống làm tướng mãnh, thác rày thần linh
Phù hộ tín chủ bình an
Cửa nhà phú túc vững bền cao xây
Mạo chiên nón khách móng giầy,
Đuôi sam hảo tố chú rày cần lo
Chú thiêng nao đấy phụng thờ
Kính quan tôn sứ để nhờ hậu lai
Nhớ xưa chú vác lăng bài
Cung đao tay nỏ, đầu cài nón chiên
Tay vòng bạc, cổ đeo tiền
Cờ mao một ngọn xông tên chiến trường
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Năm Đồng
Rạng ngày mồng sáu cờ dong lai hàng
Còn ông Tổng Đốc ban sang
Quyết liều một trận chiến trường ba quân
Muốn cho được chữ ái ân
Tuyền quyền vai gánh trung cần đế vương
Vua sai bộ sứ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa
Các chú thác xuống Diêm La
Bắc Nam đôi ngả trẻ già cùng thương
Cơm dày áo nặng nhà vương
Bõ công gối đất nằm sương bao đành
Thác ở chiến trận nên danh
Về thời vua giết chẳng lành được đâu
Chú thì thác ở đầu cầu
Chú thì tự vẫn đâm đầu xuống ao
Ai ai trông thấy thương sao
Lập đàn chẩn tế mà kêu cô hồn
Gọi là mảnh áo thoi vàng
Ít nhiều làm của ăn đường sính thiên
Khuông phù tín chủ bình an
Gái trai già trẻ thiên niên thọ trường.
(Vè Thiên triều văn)
Khu Bốn đẩy ra
Khu Ba đẩy vào
Bỏ chạy sang Lào
Nước Lào không nhận
Tức mình nổi giận
Lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng
Là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống:
“Dô tá dô tà”
Nông nghiệp nước nhà:
Trồng cây rau má
Biển khơi lắm cá
Mười mẻ một cân
Nhà máy phân lân
Một năm hai tạ
Vang tiếng xa gần
Nem chua toàn lá
Còn công nghiệp hoá
Là phá đường tàu
Đục ống dẫn dầu
Cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi
Lũ lụt triền miên
Có nhiều nhất miền
Là đất pha cát
Rừng xanh bát ngát
Là rặng phi lao
Gió mát rì rào:
Gió Lào nóng hổi
Công trình nổi trội,
Vượt cả núi non
Cái cầu con con
Gọi là cầu Bố
Mấy cây lố nhố
Gọi là Rừng Thông
Con gái chưa chồng
Đặt vòng tránh đẻ
Thanh niên trai trẻ
Lại bắt về hưu
Làng xóm tiêu điều:
Nông thôn đổi mới
Dựa vào vách đá
Bắn được máy bay
Đàn lợn thả ngày
“Kinh tế hiện đại”
Sản phẩm hàng đầu
Toàn chum với vại
Mấy bà đứng đái:
“Thủy lợi tưới tiêu”
Phá đường tàu nhiều
Rau không kịp mọc
Trẻ con đi học
Thường nắm đuôi trâu
Tiết kiệm xăng dầu:
Bơi qua sông Mã
(Vè Thanh Hóa)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về rau
Xấc láo hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không tránh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Không ba có má
Rau má có bờ
Thò tay so đo
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốt thiệt rau răm
Sống tới ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tay hay xớ rớ
Vốn thiệt rau co
Làng bắt chẳng cho
Chính là rau húng
Lên chùa mà cúng
Lại có hành hương
Giục giã buông cương
Là rau mã đề
(Vè về rau)
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư ông chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đồng Xâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.
(Vè Phá dinh công sứ Thái Bình)
Ve vẻ vè ve
Cái vè nói ngược
Non cao đầy nước
Đáy biển đầy cây
Dưới đất lắm mây
Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ
Chim thì có mồm
Thẳng như lưng tôm
Cong như cán cuốc
Thơm nhất là ruốc
Hôi nhất là hương
Đặc như ống bương
Rỗng như ruột gỗ
Chó thì hay mổ
Gà hay liếm la
Xù xì quả cà
Trơn như quả mít
Meo meo là vịt
Quạc quạc là mèo
Trâu thì hay trèo
Sóc thì lội nước
Rắn thì hay bước
Voi thì hay bò
Ngắn như cổ cò
Dài như cổ vịt
Đỏ như quả quýt
Vàng như quả hồng
Cao tồng ngồng như chim tu hú
Lùn lụ khụ như chim bồ nông
Hay chạy lon ton là gà mới nở
Cái mặt hay đỏ là con gà mào
Hay bơi dưới ao mẹ con nhà vịt
Hay la hay hét là con bồ chao
Hay bay hay nhào mẹ con bói cá
Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu
Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô
Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú
Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng
(Vè Nói Ngược)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về hoa
Vác mai đi xoi
Là bông hoa giếng
Hay bay hay liệng
Là hoa chim chim
Xuống biển mà chìm
Là bông hoa đá
Bầu bạn cùng cá
Là đá san hô
Hỏi Hán qua Hồ
Là bông hoa sứ
Gìn lòng nắm giữ
Là hoa từ bi
Ăn ở theo thì
Là hoa bầu ngọt
Thương ai chua xót
Là hoa sầu đâu
Có sông không cầu
Là hoa nàng cách
Đi mà đụng vách
Là hoa mù u
Cạo đầu đi tu
Là hoa bông bụt
Khói lên nghi ngút
Là hoa hắc hương
Nước chảy dầm đường
Là hoa mùi tưới
Rủ nhau đi cưới
Là hoa bông dâu
Nước chảy rạch sâu
Là hoa muống biển
Rủ nhau đi kiện
Là hoa mít nài
Gái mà theo trai
Là hoa phát nhũ
Đêm nằm không ngủ
Là hoa nói ngày
Bạn chẳng lìa cây
Là bông hoa cúc
Nhập giang tuỳ khúc
Là bông hoa chìu
Ở mà lo nghèo
Là hoa đu đủ
Đi theo cậu Thủ
Là hoa mồng quân
Đánh bạc cố quần
Là bông hoa ngổ
Ngồi mà choán chỗ
Là hoa dành dành
Giận chẳng đua tranh
Là bông hoa ngải
Bắt đi tha lại
Là hoa phù dung
Ăn ở theo luồng
Là bông hoa thị
Theo mẹ bán bí
Là hoa thanh hao
(Vè Hoa Lá)
Kiến lửa tập đoàn, kiến vàng ở ổ
Cao đầu lớn cổ thiệt là kiến hùm
Cắn chúng la um: kiến kim, kiến nhọt
Nhỏ như con mọt thiệt là kiến hôi
Động trời nó sôi: kiến cánh, kiến lửa
Bò ngang, bò ngửa: kiến riện đơn chai
Bò dông, bò dài, bò qua, bò lại
Kiến đực nói phải, kiến cái làm khôn
Rủ nhau lên cồn xoi hang lạch cạch
Thuở xưa, trong sách Bàn Cổ sở phân
Sanh ra chúng dân đỏ đen như kiến
Ấu tử làm biếng chẳng có mẹ cha
Không ai dạy la, nên không biết sợ
(Vè Cái Kiến)
Đàng trơn đi cho chóng
Cháo nóng húp lộn quanh
Sự lẹ đã rành rành,
Muốn cho kíp nỏ thành,
Muốn cho chầy răng (sao) được,
Nỏ muốn chầy răng được?
(Vè Con Người)
Thấy cậu tôi buồn
Giả tuồng làm vui
Phận tôi là cháu
Ngồi buồn nói láo
Cho cậu tôi nghe
Có một chiếc ghe
Chở ba trăm tượng (voi)
Chờ khi gió chướng
Chạy tuốt về te
Có con cá he
Nó xòe đuôi phượng
Có con khỉ ở trong lùm
Nó nhảy lừng tưng, lừng tưng
(Vè Con Người)
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Nghe vè thằng nhác
Vè con gái (2)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Vừa ăn vừa đái
Vừa địt vừa ho
Lỗ mũi thò lò
Lấy tay mà quẹt
Nấu cơm khét lẹt
Kho cá khét ngầm
Ban đêm đái dầm
Ban ngày ỉa trịn
(Vè Con Gái)
Uống một ly nhâm nhi tình bạn
Uống hai ly giải cạn cơn sầu
Uống ba ly mũi chảy đầy râu
Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
Uống năm ly cho chó ăn chè
Uống sáu ly ai nói nấy nghe
Uống bảy ly làm xe lội nước
Uống tám ly chân bước chân quỳ
Uống chín ly còn gì mà kể
Uống mười ly khiêng để xuống xuồng
Một xị giải phá cơn sầu
Hai xị mũi chảy đầy râu
Ba xị nằm đâu ngủ đó
Bốn xị cho chó ăn chè
Năm xị làm xe lội nước
Sáu xị vợ rước về nhà
Bảy xị ông bà chửi nát
Tám xị ra đống rác nằm
Chín xị lên băng ca
Mười xị ra nghĩa địa
Nhất xị mở mang trí hoá,
Nhị xị giải phá thành sầu,
Tam xị mũi chảy đầy râu,
Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó,
Ngũ xị cho chó ăn chè,
Lục xị vợ đè cạo gió,
Thất xị mua hòm để đó,
Bát xị … cho nó chết luôn!
(Vè Bợm Nhậu)
Nguồn: Mai Huyền Chi
Hò.. ơ..
Ông Tánh, ông Nhâm cùng ông Huỳnh Đức,
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định Tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có ông Võ Tánh.
Tài cao, sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát ngát thiêu mình như không!.. Hò.. ơ..
Hò ơ... (chớ) Cái răng, Ba láng
Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay
Một nhà có bốn chị em
Có tôi là út, tôi thèm đi chơi.
Cả gan may túi đựng trời
Đem nong sảy đá, giết voi xem giò
Ngồi buồn đem thước ra đo
Đo từ núi Sở, núi So, chùa Thầy.
Lên trời đo gió đo mây
Xuống sông đo nước, lại đây đo người.
Đo từ mười tám, đôi mươi
Đo lên chẳng được, đo người mười lăm.
Tuổi em vừa đúng trăng rằm
Tuổi anh mười sáu kết trăm năm vừa.
Một nhà sinh được ba vua
Vua còn vua mất, vua thua chạy dài
Kiến thái Vương, con thứ 26 của Hoàng Đế Thiệu Trị
Sinh ra ba Vua Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi
Đời vua Thái Tổ Thái Tông (3)
Con bế con dắt, con bồng con mang
Bò đen húc lẫn bò vàng
Hai con khiếp vía đâm quàng xuống sông
Thằng bé đi về báo ông
Bò đen ta đã xuống sông mất rồi
Anh hỏi em, không hỏi chi nghề kinh nghề sử
Không hỏi câu chữ uớ nàng
Hỏi cái áo em bận mấy đàng chỉ may
- Buổi nhỏ em có học nghề may
Cắt ra cái áo đủ tay đủ hò
Dài ngắn thì có thước đo
Luồn khuy nách chỉ cho hai đàng
Bốn đinh bốn chéo rõ ràng
Luồn khuy luồn nách hai mươi đàng chỉ may
Công danh hai chữ tờ mờ
Lấy gì khuya sớm phụng thờ tổ tiên
Khôn ngoan nhờ đức cha ông
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ
Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm
Em là con gái Đàng Trong
Em đi thuyền dưới mất lòng thuyền trên
Ba năm ăn ở thuyền trên
Bởi anh hàng muối cho nên mặn mà
Xuống thuyền nhịp bảy nhịp ba
Trách anh hàng trứng ở ra hai lòng