Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG NHI ĐỒNG - 1C
Trang 1A  1B  1C  1D   1E   1F   1G   1H   1I   1J   1K

Trang  2a  2b  2c  3a  3b  3c

 Trang  4a  4b  4c  4d  5a  5b  5c  5d 



QUYỂN MỘT

DOĂN QUỐC SỸ
Sưu tập

CA DAO NHI ĐỒNG ( Tiếp Theo )


VI
TR̉ CHƠI NHI ĐỒNG


Ư NGHĨA CÁC TR̉ CHƠI

Tṛ chơi nhi đồng Việt Nam cũng như tṛ chơi nhi đồng của bất cứ nước nào đều không ít th́ nhiều vụ vào những mục đích giáo dục. Tỉ như:

Tṛ “Rung răng rung rẻ” giúp các em nhỏ có những cử động nhịp nhàng.

Những tṛ chơi chạy, nhảy, rượt, đuổi đều có tác dụng làm cho bắp thịt các em nẩy nở. Trong tṛ chơi “Thả đỉa ba ba”, em bị rượt đuổi phải luôn luôn làm chủ được những cử động của ḿnh, chợt chạy tả, chợt chạy hữu ... để khỏi bị bắt.

Tṛ chơi “Rồng rắn” chẳng hạn, dạy các em tinh thần liên đới, bởi các em ở bên “rắn” phải luôn luôn liên kết thành một khối, đầu chặn thầy thuốc để đuôi chạy.

Tṛ chơi “Ú t́m” giáo dục thính quan, thị quan; các em vừa lắng nghe vừa chú mục nh́n để khám phá ra nơi có kẻ trốn nấp.

Phần những câu đố ở chương VII sau đây cũng là một tṛ chơi huấn luyện trí thông minh suy đoán.

Tṛ chơi thả diều (nhiều thứ diều) vừa giúp tâm trí thảnh thơi bay bổng, vừa huấn luyện óc thẩm mỹ.

Vào dịp trung thu, các em kết đoàn lại để rước đèn, vừa đi vừa hát “hồ khoan”, thực vừa có tính cách thẩm mỹ vừa có tính cách luân lư.

VÀI CÁCH BẮT THĂM

Nếu cần chỉ định một trong nhiều em giữ một vai tṛ ǵ, có cách rút thăm bằng que. Em nào rút phải chiếc que cụt, hoặc chiếc que gẫy, em đó phải lănh vai tṛ.

Nếu tṛ chơi chia làm hai phe, có thể bắt thăm nhiệm vụ chỉ định cho một trong hai phe bằng cách “Oẳn, tù, t́” hay “Ś gà”.

“Oẳn, tù, t́” là phiên âm ba tiếng Anh One, Two, Three (một, hai, ba). Hai em đứng đối diện nhau vừa đu đưa nắm tay vừa đọc :

Oẳn, tù, t́,
Cái ǵ?
Cái này !

Dứt lời mỗi em phải quyết định “xuất tŕnh” h́nh thù tay của ḿnh theo một trong ba kiểu sau đây :

1. Cả bàn tay x̣e rộng tượng trưng tờ giấy.
2. Chỉ có ngón tay trỏ và ngón tay giữa ruỗi ra tức là cái kéo.
3. Cả bàn tay nắm lại h́nh quả đấm là cái búa (với các em nhi đồng Nhật-bản th́ là ḥn đá).

Tờ giấy thắng búa v́ bọc được búa, nhưng lại thua kéo v́ kéo cắt được giấy . Búa tuy thua giấy nhưng lại thắng kéo, v́ chính với búa, thợ rèn đă rèn đập ra kéo.

“Ś Gà” : Hai em cũng đứng đối diện và sau khi đă cùng phát âm tiếng “ś” giữa hai hàm răng th́ cùng giơ một trong bốn ngón tay sau đây lên ngang mắt.

Ngón cái : vua bắt kẻ trộm.
Ngón trỏ : kẻ trộm bắt gà.
Ngón giữa : gà mổ mối.
Ngón đeo nhẫn : mối đục chân vua.

Sau đây là một số tṛ chơi phổ thông của các trẻ em Việt, đặc biệt là ở vùng quê.

1. CHƠI DIỀU:
Tṛ chơi này không riêng cho trẻ em mà cho cả người lớn nữa. Có điều người lớn th́ chơi những diều cỡ bự mang sáo chiêng, sáo đầu. Có diều lớn tới ba thước chiều ngang, một thước chiều rộng mang một bộ ba cái sáo. Sáo lớn kêu âm u gọi là sáo chiêng (phải chăng v́ kêu âm u như tiếng chiêng); sáo cỡ trung gọi là sáo đẩu. Ngày hội có những cuộc thi diều cho người lớn, giải thưởng thật hậu, chẳng thế mà ca dao ta đă có câu :

Cầm dây cho chắc,
Lúc-lắc cho đều,
Để bố đâm diều,
Kiếm gạo con ăn.

Các em nhỏ th́ chơi diều sáo loại nhỏ, hoặc loại diều vằng. Đồng bào miền Hưng-Yên (Bắc-Việt) gọi vằng là cái mạng v́ vằng làm bằng màng giang chuốt thật mỏng; lúc diều lên gặp gió, màng giang của vằng rung lên kêu “vè vè” rất vui tai.

Các em nhỏ có thể chơi loại diều nhẹ. Người khéo tay có thể làm được nhiều thứ diều : diều con cốc, diều con quạ, diều con cá, diều con bướm, diều con rết, diều chữ thập, diều cánh phản, diều mặt giăng…


2. THẢ MỒI ĐỚP BÓNG.
Sau khi đă rút thăm để xem ai phải làm tṛ “thả mồi đớp bóng”, các em khác thả lên mặt ao chiếc bong bóng lợn đầu có buộc một sợi dây dài chừng năm mươi phân. Trong khi em nọ vừa bơi vừa hụp cố há miệng đớp lấy sợi dây th́ các em xung quanh đua nhau khuấy vỗ cho mặt nước nổi sóng chao chát.

Nếu em kia đớp được sợi dây th́ em ở gần nhất lúc đó phải thay thế; nếu qua một thời gian ước định mà không được th́ phải phạt “giồng cây chuối”, nghĩa là em phải hụp đầu xuống nước, hai chân ruỗi thẳng chổng ngược lên mặt nước. Suốt thời gian đó các em khác hát lớn bài sau đây:

Thả mồi đớp bóng,
Cho chóng mà lên.
Nếu không th́ giồng cây chuối,
Cho chúng ta xem.

3. CHỒNG ĐỐNG CHỒNG ĐE
Các em ngồi hay đứng thành ṿng tṛn xếp nắm tay lần lượt theo chiều cao. Một em đứng riêng ra, vừa lần lượt chỉ từng nắm tay vừa hát :

Chồng đống chồng đe
Con chim le lưỡi
Nó chỉ thằng nào
Nó chỉ thằng này!

Chữ “này” sau cùng rơi vào nắm tay em nào, em đó lập tức vùng đuổi, các em khác cũng lập tức vùng chạy tỏa ra bốn phía. Em nào chạy không kịp bị bắt th́ phải vào thay thế.

4. HỒ KHOAN
Vào dịp Tết trung thu, các em trong làng, xóm tụ tập nhau để rước đèn. Em trưởng đoàn vừa điều khiển cuộc rước đèn theo các đường trong làng trong xóm, vừa điều khiển nhịp hát hồ khoan, nội dung câu hát thường có tính cách luân lư, đại để như sau:

Bắt cái, bắt cái này, hồ khoan !
Ai ơi chớ vội cười nhau,
Cây nào mà chẳng có sâu chạm cành.
Hồ khoan !

Bắt cái, bắt cái này, hồ khoan !
Làm người mà chẳng biết suy,
Đến khi nghĩ lại c̣n ǵ là thân
Hồ khoan !

5. RUNG RĂNG RUNG RẺ
Rung răng rung rẻ,
Dắt trẻ đi chơi.
Đến cửa nhà trời,
Lạy cậu lạy mợ,
Cho cháu về quê,
Cho dê đi học,
Cho cóc ở nhà,
Cho gà bới bếp !
X́ xà x́ xụp
Ngồi thụp xuống đây.

CHÚ THÍCH : Tṛ chơi này của các em nhỏ tuổi (cỡ mẫu giáo). Các em chỉ việc giắt tay nhau vừa đi vừa hát. Khi hát xong câu cuối cùng th́ cùng ngồi thụp xuống, rồi lại đứng lên rung răng hát lại. Một thứ thể thao nhẹ cho các em.

6. NU NA NU NỐNG (I)
Nu na nu nống,
Cái Cống nằm trong.
Cái Ong nằm ngoài,
Củ khoai chấm mật.
Phật ngồi phật khóc,
Con cóc nhảy ra,
Con gà ú ụ,
Nhà mụ thổi xôi,
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rụt.

CHÚ THÍCH : Đây cũng là tṛ chơi đặc biệt của các em c̣n nhỏ. Ba, bốn em cùng nhau hội lại ruỗi thẳng cả hai chân ra. Một em vừa hát vừa tuần tự lấy tay đếm từng chân một. Tiếng “rụt” dứt bài rơi vào chân nào, chân đó phải rụt lại.

7. NU NA NU NỐNG (II)
Nu na nu nống,
Thằng cộng, các cạc,
Chân vàng, chân bạc.
Đá xỉa, đá xoi,
Đá đầu con voi.
Đá lên, đá xuống.
Đá ruộng bồ câu.
Đá râu ông già.
Đá ra đường cái.
Gặp gái đi đường.
Có phường trống quân.
Có chân th́ rụt.

CHÚ THÍCH : Cũng có nơi có bài “nu na nu nống” khác như sau : Nu na nu nống / Cái cống càng cạng / Đá rạng đôi bên / Đá lên đá xuống / Đá ruộng bồ câu / Đá đầu con voi / Đá xoi đá xỉa / Đá nửa cành xung / Đá ung trứng gà / Đá ra đường cái / Gặp gái giữa đường / Gặp phường trống quân / Có chân th́ rụt.

8. X̀A CÁ MÈ
X́a cá mè.
Đè cá chép.
Chân nào đẹp.
Đi rao men.
Chân nào đen.
Ở nhà làm gà làm chó.

CHÚ THÍCH : Tṛ chơi này đặc biệt thường thấy ở vùng Bắc Ninh. Tiếng “đẹp” rơi vào chân em nào, em đó sẽ đứng lên đi và rao “Ai mua men ra mua!” Tiếng “gà” (có khi là “mèo”), tiếng “chó” rơi vào chân em nào em đó sẽ vừa đi kiểu bốn chân vừa bắt chước tiếng gà, tiếng mèo hoặc tiếng chó sủa “gấu gâu”.

9. THẢ ĐỈA BA BA
Thả đỉa ba ba,
Chớ bắt đàn bà.
Phải tội đàn ông,
Cơm trắng như bông,
Gạo tiền như nước,
Đổ mắm đổ muối.
Đổ chốt hạt tiêu,
Đổ niêu cứt gà.
Đổ phải nhà nào,
Nhà nấy phải chịu.

Trong tṛ chơi này bốn năm em đứng tụm lại giữa sân rộng, một em vừa hát vừa lấy tay vỗ lên đầu từng người theo thứ tự ṿng tṛn. Dứt bài, chữ “chịu” rơi phải đầu em nào, em đó phải ở lại dưới sân làm đỉa, làm ba ba hay làm nam nam. Theo tín ngưỡng người Việt ở vùng quê, hễ chuôm ao nào có người chết đuối th́ linh hồn người đó biến thành con nam nam (nói theo miền Nam là con ma gia), luôn luôn ŕnh cơ hội rủi người khác chết đuối. Có vậy linh hồn kẻ chết đuối mới được thay thế mà tái sinh.

Trong khi một em phải ở lại dưới sân làm đỉa (hay ba ba, hay nam nam) th́ các em khác lên hết trên bờ hè hoặc bờ cao quanh sân để rồi sẽ chạy từ bờ bên này qua bờ bên kia. Em ở “dưới ao” cố săn đuổi, túm áo bắt được em nào, em đó phải thay thế. Tṛ chơi này thường là của các em trai và đặc biệt phải chơi vào những đêm trăng tháng 8.

Các em ở vùng Bắc Ninh có bài hát tương tự để thay thế sau đây :
Thả đỉa ba ba / Chớ bắt đàn bà / Phải tội đàn ông / Cơm trắng như bông / Gạo tiền như nước / Gánh ba gánh nước / Đưa cậu ra đồng / Đánh ba tiếng cồng / Cậu ơi là cậu /

10. CHI CHI CHÀNH CHÀNH
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương ngũ đế
Chấp chế đi t́m
Hù tiu, bắt … ập !

CHÚ THÍCH : Một em x̣e bàn tay trái rồi cùng ba bốn em khác cùng đặt ngón tay trỏ vào giữa ḷng bàn tay. Em hát bài trên, đến câu cuối cùng cố ư kéo dài giọng ở chữ “bắt” để rồi bất th́nh ĺnh nắm tay lại cùng với chữ “ập”. Em nào rút chậm bị giữ ngón tay trỏ, em đó phải ở lại, tự bịt mắt để các em khác đi trốn. Em nào bị t́m thấy đầu tiên sẽ phải thay thế.

Cũng trong tập IIEH 1943 (Institut Indochinois pour l’E’tude de l’Homme. Tome VI, p.170), nhà học giả Nguyễn Văn Tố có sưu tầm được một bản văn khác về bài “Chi chi chành chành” với lời giải thích là ư nghĩa toàn bài đó ám chỉ chuyện vua Hàm Nghi đi trốn và bị bắt như sau :

11. CHI CHI CHÀNH CHÀNH
Chu chi rành rành !
Cái đanh thổi lửa,
Con ngựa đứt cương,
Ba vương lập đế,
Chấp chế thượng hạ,
Ba chạ đi t́m
Ú tim, ù ập !

Chu: ṿng, tṛn; chí : đạt tới. Cả câu có ư nói chúng ta đứng thành ṿng tṛn đầy, chúng ta hiểu điều đó lắm.

Câu thứ hai ư muốn báo trước những biến cố đau thương sắp tới.

Ba vương nói ở câu bốn là ba vua kế tiếp nhau lên ngôi : Dục Đức, Hiệp Ḥa và Kiến Phúc.

Chạ chính nghĩa là xóm, một phần của làng (ca dao VN “làng trên chạ dưới thiếu ǵ giai to”). Nhưng ba chạ ám chỉ ba làng Thanh Lạng, Thanh Cốc và Tha Mặc đi t́m vua. Ba làng này đă được kể tới trong bài “ Poursuites dirigées contre le roi Ham Nghi” của R.P.A Delvaux đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, 1941, tr. 303.

Câu cuối : vua Hàm Nghi bị bắt, ngày 2-11-1888.

Ông Nguyễn Văn Tố giải thích thêm là vua Hàm Nghi khởi sự đi trốn vào tháng bảy năm 1884, bị bắt vào ngày 2-11-1888 và bài đồng dao được ghi lại theo lời một người dân vùng Sơn Tây, đă được đăng tải lần đầu tiên trên tờ “La Patrie Annamite” ngày 15-6-1935.

Cũng trong tập IIEH 1943, bài “Note à propos d’une chanson enfantine Annamite” trang 207-212, một học giả khác, ông Nguyễn Văn Huyên, thuật lại một cách giải thích khác mà ông được nghe từ thuở thiếu thời. Theo ông, th́ đây là một bài sấm tiên tri về tương lai nước Nam nhà sau khi nhà Lê đổ :

Chi chi chành chành : từ cành lớn sinh ra những ngành nhỏ (gợi ư niệm những biến động theo luật nhân quả)

Cái đanh thổi lửa : Ám chỉ que diêm quẹt lửa hay đúng hơn cái kim hỏa của súng tượng trưng cho sức mạnh Tây phương mà tới hồi cuối thế kỷ XVIII đó người Nam ta mới được biết.

Con ngựa chết trương : Ám chỉ vua Lê-Hiển-Tông chết vào ngày Mậu Ngọ (ngày 17), tháng 7, năm Bính Ngọ (1786), sau 47 năm cực nhọc với ngôi trời. Nhà vua chết vào đúng lúc kinh đô Thăng Long bị quân Tây Sơn chiếm giữ.

Ba vương ngụ đế : Ba miền đă có người xưng vương, Nguyễn Huệ (Quang Trung), miền Bắc, Nguyễn Nhạc (Thái Đức) miền Trung, Nguyễn Ánh (tương lai sẽ là vua Gia Long) miền Nam.

Cấp kế thượng hải : Viện binh từ biển tới. Ám chỉ việc Hoàng tử Cảnh theo ông Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện năm 1789.

Ú tim Ù ập: Mọi người đều như chơi “ú t́m” từ đấy. Nào là việc cấm giảng đạo, giết giáo sĩ của những triều đại kế vị Gia Long đă vô t́nh làm cho người Pháp phản ứng lại. Sự phản ứng đó không ngờ đă khiến người Pháp chiếm được nước Nam rồi cả bán đảo Đông Dương. Rơ thật chẳng khác ǵ hai bên chơi tṛ ú t́m, mọi kết quả đều đến bất ngờ ngoài mọi mưu toan của đôi bên.

12. VẤN ĐÁP
- Chú ǵ ?
- Chú chuột.
- Chốt ǵ ?
- Chốt tre.
- Bè ǵ ?
- Bè muống.
- Ruộng ǵ ?
- Ruộng nương.
- Đường ǵ ?
- Đường cống *
- Cống ǵ ?
- Cống sáp.
- Sáp ǵ ?
- Sáp ong.
- Ḷng ǵ ?
- Ḷng giời.
- Chơi ǵ?
- Chơi tán **
- Tháng ǵ ?
- Tháng chầu,
- Chầu ǵ ?
- Chầu … bụt !

* Đường cống là đường để đem đi tiến cống.
** Tán đây là một thứ lọng.

CHÚ THÍCH : Đây cũng như tṛ chơi “chi chi chành chành” nhưng thay v́ một em đọc trọn bài, th́ ở đây một em đọc câu hỏi, em khác ch́a tay phải trả lời. Chú ư là đến câu hỏi cuối “Chầu ǵ” th́ em ch́a tay trả lời kéo dài chữ “Chầu” … để đến khi bất chợt đọc nốt chữ cuối “bụt” là ập tay lại. Em nào không rút kịp ngón tay trỏ sẽ phải làm ba ba (hay nam nam).

13. TẬP TẦM VÔNG
Tập tầm vông,
Tay nào không ?
Tay nào có ?
Tập tầm vó,
Tay nào có ?
Tay nào không ?

CHÚ THÍCH : Một em thoạt giấu hai tay phía sau, rồi đặt hai tay nắm lại trước mặt em kia và đọc bài đồng dao trên để em kia đoán xem vật nào đó được giấu ở tay nào.

Bài “Chồng lộng, chồng cà (I)” kế tiếp nhường như là lời hát của em đoán.

14. CHỒNG LỘNG CHỒNG CÀ (I)
Chồng lộng, chồng cà.
Bí đao bí đỏ,
Mày ngồi đầu ngơ,
Mày nhặt lông mày,
Mày cày ruộng ấu,
Mày giấu tay nào ?
Mày giấu tay này !

CHÚ THÍCH : Bài này nhường như là lời hát của em đoán. Hát dứt bài, em chỉ vào tay mà em nghi có giấu.

15. CHỒNG LỘNG, CHỒNG CÀ (II)
Chồng lộng, chồng cà,
Mày x̣a hoa khế,
Khế ngâm, khế chua,
Cột đ́nh, cột chùa,
Nhà vua mới làm.
Cây cam, cây quưt,
Cây mít, cây hồng.
Cành thông, lá nhăn,
Ai có chân, có tay th́ rụt.

CHÚ THÍCH : Căn cứ vào câu cuối cùng của bài ca th́ tṛ chơi áp dụng cho bài này tương tự với tṛ chơi của bài “Nu na nu nống”.

16. MÍT MẬT MÍT GAI
Mít mật mít gai
Mười hai thứ mít
Vào ăn thịt
Ra ăn xôi
Chú chẳng nghe tôi
Tôi bịt mắt chú
Ẩn đâu cho kín
Bao giờ lúa chín th́ về.

CHÚ THÍCH : Đây là tṛ chơi đi trốn (ú t́m). Một em tự bịt mắt, để cho các em khác có th́ giờ đi trốn. Khi nghe các em trốn “ú” một tiếng, (nghĩa là đă trốn xong), th́ em đi t́m. Em nào bị t́m thấy đầu tiên th́ vào thay thế.

17. MÙI XỎA MÙA XOA
Mùi xỏa mùi xoa,
Tao cho xuống đất.
Đứa nào sợ quất,
Sờ lại phía sau.
Đứa nào sợ đau,
Mau mau chạy trốn.

CHÚ THÍCH : Các em ngồi thành ṿng tṛn, một em cầm chiếc khăn vừa đi quanh vừa đọc và kín đáo để khăn rơi xuống phía sau một em nào đó. Em đó khám phá kịp thời th́ nhặt khăn và đuổi em kia thuận theo ṿng (không được đuổi đón đầu v́ ngược ṿng). Em bị đuổi chạy về ngồi vào chỗ trống của em đuổi ḿnh. Tṛ chơi này phải thật lẹ và thật tinh khôn. Có em trong khi đuổi đă lẹ để rơi chiếc khăn sau một em khác rồi. Nếu vô t́nh không biết, trọn một ṿng, em đó sẽ bị em kia nhặt chiếc khăn tay lên và đánh cho đến khi em chạy trọn một ṿng trở về ngồi lại chỗ cũ. Căn cứ vào chữ “mùi-xoa” phiên âm chữ Pháp mouchoir , ta biết rằng bài hát tṛ chơi này cũng mới được sáng tác từ sau ngày gặp gỡ Tây phương. Giống bài Oẳn tù tỳ.

18. ĐÁNH CHUYỀN
Từ hai đến năm em tụ tập lại. Đồ chơi là một viên cuội nặng (bây giờ là một trái banh) và mười chiếc que gọi là mười con chắt.

Lần thứ nhất : Các em tung ḥn cuội hay trái banh lên cao rồi dùng cả hai tay xoay tṛn nắm que một ṿng, và khi ḥn cuội rơi xuống cũng vừa kịp bắt. Vừa làm vậy các em vừa hát bài sau đây :
Giồng luống cải,
Giải con chắt.
Một giẻo giang
Hai sang đ̣.
Ba c̣ kếu.
Bốn nghêu ngao.
Năm đao thớt
Đặt xuống đất.
Cất lên tay.

Khi đọc đến câu 8, em đặt cả mười con chắt xuống; đến câu 9, câu cuối cùng, em lại vơ cả mười con chắt lên tay.

Lần thứ hai : Em duỗi thẳng hai chân, giải những con chắt lên đó vùa hát vừa làm theo lời hát:
Giải xuống chân,
Nưng lên một,
Chộp lấy đôi.

Em lại đặt cả mười con chắt xuống chân, hát và làm tiếp cho đến :

Giải xuống chân
Nưng lên một
Chộp lấy mười

(V́ chỉ có mười con chắt nên hai lần sau cùng “chộp lấy chín” và “chộp lấy mười” làm như nhau).

Lần thứ ba :
Giải xuống đất
Cất lên tay
Sang tay qua
Ra tay chống
Chống chống một

Cứ thế em hát cho đến “Chống chống mười”. Hát câu thứ nhất, em giải mười con chắt xuống đất; sang câu hai, em vơ những con chắt lên tay; hát câu ba, em đưa bó chắt sang tay kia; câu bốn, em đưa bó chắt trở về tay cũ (thường là tay mặt); từ câu năm trở đi th́ mỗi lần tung ḥn cuội lên em lại chống chống bó chắt xuống theo đúng nhịp hát để vừa kịp bắt lấy ḥn cuội khi rơi xuống. Cứ như vậy cho đến “chống chống mười”.

Lần thứ tư :
Giải xuống đất.
Cất lên tay.
Sang tay qua.
Ra tay quét.
Quét quét một …

Lần này em cũng làm như lần trước chỉ khác là khi hát đến câu “Quét quét một” th́ em dùng bó chắt làm điệu quét quét. Cứ như vậy tuần tự cho đến Quét quét mười”.

Lần thứ năm : Em vừa tung cuội, chuyển bó chắt từ tay nọ sang tay kia, vừa nhịp nhàng bắt lấy ḥn cuội khi rơi xuống cùng với lời hát :

Đầu quạ.
Quá giang.
Sang đ̣.
Giồng cây.
Ăn quả.
Nhả hột.

Cũng có nơi bài hát dài hơn như sau :

Đầu qua.
Quá giang.
Sang sông.
Về đ̣.
C̣ nhảy.
Gẫy cây.
Mây leo.
Bèo trôi.
Ổi xanh.
Hành bóc.
Róc vỏ.
Đỏ ḷng.
Tôm cong.
Đít vịt.
Sang cành nẻ.
Bẻ cành xanh.
Vét bàn thiên hạ.

Đến đây vừa hết một chu kỳ của tṛ chơi. Em nào bị lỗi ở quăng nào th́ phải nhường lượt cho em kế tiếp.

Tùy địa phương tṛ chơi này có thể gia giảm khác đi chút ít.

19. PHỤ ĐỒNG CHỔI
Phụ đồng chổi,
Thôi lổi mà lên.
Ba bề bốn bên,
Đồng lên cho chóng.
Hoặc là cửa đóng,
Cũng phá mà vào.
Cách sông cách ao,
Cũng lội mà sang.
Cách đ̣ cách giang,
Cũng sang cho được.
Ông chổi đi trước,
Bà chổi đi sau.
Một lũ lau nhau,
Đồng lên cho chóng.

CHÚ THÍCH : Một em ngồi xếp bằng tṛn, tay cầm cán chổi dựng đứng; một em khác phụ đồng bằng cách vừa đánh trống theo từng nhịp đều đều vừa hát bài trên. Đồng đảo dần … đảo dần … rồi bất chợt vùng dậy vung chổi; các em đứng xung quanh vội chạy về bốn ngả để tránh ngọn chổi quét hay đập vào người. Khi muốn đồng tỉnh lại th́ vẩy nước lạnh lên mặt. Thật ra ít khi xảy ra chuyện em ngồi đồng bị mê thật. Thường thường chỉ là em giả vờ đảo đồng như vậy. Tṛ chơi này chung cả các em trai gái và thường chơi vào những đêm trăng tháng tám.

20. PHỤ ĐỒNG ẾCH
Ếch ! Ếch ! Mày mới về đây,
Nói dăm câu chuyện cho thầy nghe xem.
Thân ếch là thân ếch hèn,
Giường chiếu chẳng có nằm trần đất không.
Gặp ông quỷ lăo thần thông,
Thắt lưng bó đuốc t́m trông việc ǵ.
T́m tôi có việc phu thê,
Chốn này không vợ, chốn kia không chồng.
Ông bắt tôi ông bỏ vào lồng,
Tôi kêu “ễnh ộp” chẳng ḷng nào tha.
Tháng tám lúa tốt xanh xa,
Tháng ba gieo mạ sương sa đồng ngoài.
Tôi ngồi, tôi nấp bụi khoai,
Ông ném một mồi tôi phải tḥ ra.
Tham ăn mắc phải răng hà,
Cha hời, mẹ hỡi xiên qua, mép này !
Tôi về đây trách cậu, trách d́,
Sẵn dao, sẵn thớt băm th́ chẳng tha.
Thứ nhất là củ hành hoa,
Thứ nh́ nước mắm, thứ ba củ riềng.
Thứ tư là hạt hồ tiêu,
Tán ra cho đều vừa hắc vừa cay.
Khen thay thằng bé hai tay,
Miếng nạc nó gắp, xương rày thảy xa.
Giầu đâu ăn đỏ môi ta,
Rượu đâu uống chén, ắt là hồn lên.

CHÚ THÍCH : Em ngồi đồng phải quỳ xuống hai tay chống đất, miệng ngậm mấy nén hương. Một em khác vừa vỗ tay vừa hát bài phụ đồng trên. Khi hồn ếch nhập ấy là lúc em ngồi đồng nhảy kiểu bốn chân như ếch. Muốn cho đồng thăng th́ cũng vẩy nước lạnh lên mặt như tṛ chơi phụ đồng chổi.

Và cũng như phụ đồng chổi, tṛ chơi này chung cho cả các em trai gái, chơi vào những đêm tiết trung thu.

21. TR̉ CHƠI RỒNG RẮN
Thầy thuốc : - Rồng rắn đi đâu ?
Rồng rắn : - Rồng rắn đi lấy thuốc cho con.
TT: - Con lên mấy ?
RR: - Con lên một.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên hai.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên ba.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên bốn.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên năm
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên sáu.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên bảy.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên tám.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên chín.
TT: - Thuốc chẳng hay.
RR: - Con lên mười.
TT: - Thuốc hay vậy.
- Xin khúc đầu.
RR: - Những xương cùng xẩu.
TT: - Xin khúc giữa.
RR: - Những máu cùng me.
TT: - Xin khúc đuôi.
RR: - Tha hồ mà đuổi.

CHÚ THÍCH : Trong tṛ chơi “Rồng Rắn” này một em đứng ra làm thầy thuốc, c̣n tất cả các em khác ôm lấy ngang lưng nhau làm rồng rắn. Lúc đối thoại giữa thày thuốc và rồng rắn là lúc tất cả mọi người hồi hộp. Khi rồng rắn nói dứt câu “Tha hồ mà đuổi” th́ ông thầy thuốc cố gắng mà đuổi để bắt được cái đuôi, trong khi đó cái đầu th́ ra sức chặn và cái đuôi th́ ra sức lẩn tránh. Nếu ông thầy thuốc bắt được cái đuôi th́ được cuộc; trái lại nếu bị rắn uốn khúc cuộn chặt lấy th́ bị thua. Kẻ thua phải nắm hai tay lại chồng lên nhau (gọi là chồng tiền) để cho kẻ được đánh một cái.

Tṛ chơi này khiến các em vừa săn đuổi nhau vừa la hét, thật mệt, nhưng cũng là một trong những tṛ chơi hào hứng nhất của trẻ em Việt nam.

22. TR̉ CHƠI ĐỌC CÂU
Các em đố nhau đọc thật nhanh.
Có những câu dễ đọc như :
Bà ba béo,
Bán bánh bèo
Bị bắt bỏ bót
Ba bốn bận
Bởi bướng bỉnh.

Hay:
Mượn cái xanh
Nấu bát canh
Cho hành cho hẹ

Hay :
Lư lũy lên ḷ lấy ḷng lợn.

Có những câu nói nhanh mà không lầm như
Tháng năm nắng lắm.
(Đọc nhanh có thể lầm thành “Tháng năm nắng nắm”)

Hay :
Búa bổ đầu búa
(Rất có thể đọc nhanh sẽ nhịu thành “Búa bổ đầu bố ”)

Hay câu dưới đây cũng rất khó nói nhanh :
Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch ?

CHÚ THÍCH : Tiếng Pháp cũng có tṛ chơi loại nầy như câu :
Chasseur sachant chasser sans chien !


Các em nhi đồng Anh Mỹ gọi tṛ chơi loại này là câu đọc trẹo lưỡi (tongue twisters hay tongue trippers) như câu sau đây :
If Peter Piper Pick’d a Peck of Pepper
Where’s the Peck of Pepper Peter Piper Pick’d.

23. ĐẾM SAO
Cũng thuộc loại tṛ chơi phải nói nhanh, có tṛ chơi đếm sao. Em đó phải làm sao nói liền một hơi câu sau này :

Đố ai ở trong nhà đi ra ngoài sân đếm được ba mươi sáu ông sao. Một ông sao sáng; hai ông sáng sao … cho tới ba mươi lăm ông sao sáng, ba mươi sáu ông sáng sao.

Thường th́ các em chỉ đếm đến mười ông là đă cảm thấy hụt hơi đến nơi rồi.

24. HÙ MA TRƠI
Hù ma-trơi
Mặt trời chửa lặn.
Con rắn ḅ ra,
Con ma thập tḥ.

CHÚ THÍCH : Vào lúc chập tối, một em bạo dạn có thể lănh đạo một vài em khác ra đồng tới chỗ nhiều mồ mả mà hát câu trên. Nếu bất chợt có con đom đóm lớn hoặc có chất lân tinh bay lên th́ cũng rất có thể là các em ba chân bốn cẳng chạy cho lẹ về ngơ xóm.

25. CÁC TR̉ NHỎ CHƠI KHÁC
Ngoài ra cũng nên kể qua một số tṛ chơi nghịch lặt vặt khác như :
ậ Em dùng một cành tre hay một cành cây nào làm như đương cỡi ngựa, rồi vừa chạy xung quanh sân vừa hát :
Nhong nhong ngựa ông đă về
Cắt cỏ Bồ đề cho ngựa ông ăn.
Bồ đề là tên một thổ ngơi không xa Gia Lâm (Bắc Việt), nơi có mọc cỏ tốt cho ngựa ăn.
ậ Em bắt được con cào cào, cầm hai càng của nó vừa nâng lên nâng xuống vừa hát :
Cào cào giă gạo tao xem,
Tao may áo đỏ áo đen cho mày.
ậ Em có thể lén bỏ một cọng rơm, cọng cỏ hay một cái ǵ nhẹ lên đầu bạn rồi hát :
Trên đầu có tổ ṭ ṿ,
Gọi ta là chú học tṛ, ta cất đi cho.
Đây cũng là một chứng tích ḷng hiếu học của người ḿnh, luôn luôn lấy việc là học tṛ làm một điều vinh hạnh.

VII
CÂU ĐỐ


1. Bốn em cùng ở một nhà
Mẹ thời chia của con ra nhà người.
(Giải : ấm nước và bốn cái chén)
2. Bốn người giẫm đất, một người phất cờ,
Hai người lẳng lơ, hai người quạt mát.
(Giải : con voi)
3. Bốn bên thành lũy không thấp, không cao,
Có sông có nước, cá chẳng vào,
Voi đi đến đấy dừng chân lại,
Đôi bên văn vũ nghĩ làm sao?
(Giải : bàn cờ)
4. Cái ǵ như thể khí trời,
Ngày đêm quanh quẩn ở nơi cạnh ḿnh.
Không hương, không sắc, không h́nh,
Không h́nh, không sắc, mà ḿnh không qua.
(Giải : ḷng cha mẹ)
5. Cây bên ta, lá bên Ngô,
Coi ngọn tày bồ, cái gốc tày tăm.
(Giải : cái diều)
6. Cô kia con cái nhà ai,
Thắt lưng nhiễu trắng, lỗ tai đeo trằm.
Đứng bên nghe tiếng rầm rầm,
Ru đi ru lại ầm ầm bên tai.
(Giải : cái cối xay)
7. Cô kia má đỏ hồng hồng,
Cô đi lấy chồng, cô bỏ quê cha.
Ngày sau tuổi hạc mau già,
Quê chồng cô bỏ, quê cha lại về.
(Giải : cái nồi đồng)
8. Da cóc mà bọc trứng gà,
Mở ra thơm nức cả nhà muốn ăn.
(Giải : quả mít)
9. Đầu làng đánh trống,
Cuối làng phất cờ.
Trống đánh đến đâu,
Cờ phất đến đấy.
(Giải : con chó sủa)
10. Đêm th́ mẹ mẹ con con,
Ngày th́ chết hết chẳng c̣n một ai.
C̣n một ông lăo sống dai,
Nhăn nhăn nhó nhó chẳng ai buồn nh́n.
(Giải : bầu trời)
11. Đường ngay thông thống,
Hai cống hai bên,
Trên hàng gương,
Dưới hàng lược.
(Giải : cái mặt)
12. Không sơn mà đỏ,
Không gơ mà kêu,
Không khều mà rụng.
(Giải : mặt trời, sấm và mưa)
13. Không trồng mà mọc,
Không học mà hay,
Không vay mà trả,
Không vả mà sưng,
Không bưng mà kín.
(Giải : cây cỏ, chim hót, sưu thuế, cái nhọt, quả trứng)
14. Lẫm liệt uy phong,
Mây hồng che phủ,
Bao nhiêu thú dữ,
Đều phải phục ṭng.
(Giải : quả núi cao)
15. Ḿnh tṛn lưng khỏng kḥng khong,
Dây tơ vấn vít con ong nửa vời.
Rằng ta t́m chốn thảnh thơi,
Bắt con rồng đất ghẹo người thủy cung.
(Giải : câu cá)
16. Một đàn c̣ trắng phau phau,
Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm.
(Giải : cái rổ bát)
17. Một ḷng v́ nước v́ nhà,
Người mà không biết, trời đà biết cho.
(Giải : cái máng)
18. Một cây mà có năm cành,
Giấp nước th́ héo, để dành th́ tươi.
(Giải : bàn tay)
19. Một cây mà nở trăm hoa,
Trời mưa th́ héo, nắng già th́ tươi.
(Giải : bầu trời sao)
20. Ngả lưng cho thế gian nhờ,
Vừa êm, vừa ấm, lại ngờ bất trung.
(Giải : cái phản)
21. Sừng sững mà đứng cửa quan,
Giáo đâm không chết, ḷi gan ra ngoài.
(Giải : cái khóa)
22. Vừa bằng cái vung,
Vùng xuống ao,
Đào chẳng thấy,
Lấy chẳng được.
(Giải : Mặt trời)
23. Vừa bằng thằng bé lên ba,
Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng.
(Giải : bó mạ)

VII
NHỮNG BÀI HÁT TRẺ EM CỦA NAM HƯƠNG


Tác giả Nam Hương tên thật Bùi Huy Cường, sinh năm Đinh Dậu (1897) tại Hà Nội, theo học ở trường Bưởi, rồi dạy ở trường tiểu học Bạch Mai (Hà nội). Sau hiệp định Genève, ông ở lại miền Bắc. Nếu nay c̣n sống, ông đă 72 tuổi rồi. Theo Vũ Ngọc Phan th́ hai tập thơ ngụ ngôn “Gương Thế Sự” (1920-1921) của Nam Hương có lẽ là những thơ ngụ ngôn ra đời sớm nhất ở nước ta, rất được hoan nghinh trong một thời và đáng được mọi người biết hơn nữa *

Riêng soạn giả nghĩ rằng ông Nam Hương quả đáng được mệnh danh là đệ nhất thi sĩ của các em thiếu nhi. Những bài thơ ngụ ngôn hoặc những bài hát viết cho trẻ em của ông thảy đều giản dị, dễ hiểu, trong sáng và hồn hậu vô cùng. Chưa có ai, ngoài ông, đă dành cả thi nghiệp của ḿnh cho các thiếu nhi. Tiếc thay, v́ chúng ta ít chú trong đến sác đọc cho các em nhi đồng, nên sách của ông chỉ ấn hành một thời, bán hết là thôi, không tái bản nữa.

Chính Vũ Ngọc Phan đă phải ghi chú điểm nhận xét này từ năm 1942 :
“Tôi rất lấy làm tiếc rằng những tập thơ có tính cách giáo dục và trong sáng như thế hiện nay trẻ con lại không có để đọc, v́ từ lâu không c̣n thấy có thơ ngụ ngôn của Nam Hương ở các hiệu sách Hà Thành” **

Những bài sau đây của ông đều được trích dẫn ở tập Bài Hát Trẻ Con, Tứ Dân Văn Uyển, số 25, tháng 7, 1936.

Chúng ta sẽ c̣n nhắc đến ông ở tập Ngụ Ngôn tới.

Ghi chú:
(*) Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại (Hà nội, 1951) III, 303.
(**) lbd tr 367

1. KÉO GỖ
Dô ta!
Cùng nhau kéo gỗ , dô-ta !
Kéo từ sườn núi kéo ra cánh đồng;
Đóng bè thả xuống ḍng sông,
Thuận buồm xuôi gió b́nh bồng trôi đi.
Hai bên cây cỏ xanh ŕ,
Mải vui cảnh mới, nghĩ ǵ đường xa.
Dô ta !
Cùng nhau kéo gỗ, dô ta !
Kéo lên trên bến làm nhà trú thân;
Nào dui, nào cột, nào trần,
Tường cao cửa rộng trăm phần b́nh yên.
Vợ chồng con cái đoàn viên,
Chẳng lo gió táp, chẳng phiền mưa sa.
Dô ta !
Cùng nhau kéo gỗ, dô ta !
Kéo vào trong xưởng xẻ ra vắn dài.
Thợ thuyền h́ hục hôm mai,
Đóng bàn đóng ghế cho ai học hành.
Mai sau nổi tiếng tài danh,
Chớ quên núi đỏ rừng xanh nước nhà.
Dô ta !

2. CHUỒN CHUỒN
Chuồn chuổn chuồn chuồn !
Hết qua ngọn cỏ lại luồn cành cây;
Hỏi đi đâu đấy hỡi mày ?
Bảo cho ta biết, ta đây đỡ buồn.

Chuồn chuổn chuồn chuồn !
Hết qua ngọn cỏ lại luồn cành cây;
Tôi đi đi khắp đó đây,
Bắt ruồi bắt muỗi cho khuây nỗi buồn.

Chuồn chuổn chuồn chuồn !
Hết qua ngọn cỏ lại luồn cành cây;
Thôi mày dừng cánh nghỉ bay,
Là là xuống với ta đây đỡ buồn.

Chuồn chuổn chuồn chuồn !
Hết qua ngọn cỏ lại luồn cành cây;
Bằng nay dừng cánh nghỉ bay,
Một khi bị bắt tôi đây cũng buồn.
Chuồn chuổn chuồn chuồn *

(*) Tiếng chuồn c̣n có nghĩa là chạy trốn.

3. CON C̉
Con c̣ bay bổng, bay la,
Bay từ cửa tổ, bay ra cánh đồng,
Suốt ḿnh trắng nơn như bông;
Gió xuân thỉnh thoảng bợp lông lên đầu.
- Hỏi c̣ vội vă đi đâu ?
Xung quanh ruộng nước một màu bao la.
- C̣ tôi bay bổng, bay la,
Bay từ cửa tổ, bay ra cánh đồng.
Trời sinh, mẹ đẻ tay không,
Cho nên đi khắp tây đông kiếm mồi.
Trước là nuôi cái thân tôi,
Sau nuôi đàn trẻ nên đời c̣ con.
Một mai khôn lớn vuông tṛn,
Rủ nhau bay khắp nước non xa gần.
Kiếm mồi tự lập lấy thân,
Vẻ vang hănh diện cho dân con c̣.
Mỗi ngày một lớn một to,
Chớ đừng khốn nạn chỉ lo cậy người.
Mà cho nông vạc chê cười…
Ấy tôi lấy thế làm vui tuổi già.
Nên tôi bay bổng bay la,
Bay từ cửa tổ, bay ra cánh đồng.

4. THỢ CẦY
Làm ăn tự sáng đến chiều,
Giữa trời bêu nắng như thiêu ngoài đồng.
Ruộng nương chẳng chịu bỏ không,
Hết mùa thóc lúa lại giồng ngô khoai.
Nghiệp nhà gánh vác hai vai,
Chẳng chồn gót ngọc, chẳng phai dạ vàng.
Ấm no là cái vẻ vang,
Quyền cao chức trọng không màng không ham.
Tháng năm biết có việc làm,
Ấy người cày ruộng nước Nam nhà ḿnh.

5. NGHỀ HÀNG SÁO
Ù ù tiếng sấm,
Xay cho đều, chớ chậm đừng nhanh.
Xay cho vỏ chấu tan tành,
Cho thân hạt gạo nguyên lành chui ra.

Ph́ phà ph́ phạch !
Quạt làm sao cho mạnh, cho mau,
Quạt cho chấu, bụi đuổi nhau,
Cho thân hạt gạo sạch làu mới hay.

Tiếng chày b́nh bịch !
Giă cho đều, cho thích cẳng chân,
Giă cho cám nhỏ muôn phần,
Tức th́ hạt gạo thành thân ngọc ngà.

B́ bà b́ bạch !
Sảy làm sao cho sạch cám ra;
Gạo kia trong trắng nơn nà,
Thế gian no đủ thế là xong công.

6. THỢ NỀ
Kỳ cà kỳ cạch !
Từng đường từng mạch,
Này thước, này dao,
Này vôi, này gạch,
Đổ móng, đổ nền,
Trát tường, trát vách,
Làm cửa, làm nhà,
Xây thành, xây quách,
Tháng lại ngày qua,
Kỳ cà kỳ cạch !

Kỳ cà kỳ cạch !
Tôi th́ thích nghề tôi,
Dậy từ sáng bạch,
Lên dóng lên thang,
Ngồi cao, ngồi thấp,
Bốn mặt xung quanh,
Khi giời trong sạch,
Chẳng phải cúi luồn,
Chẳng cần chen lách,
Hết hát t́nh tang,
Lại cười khanh khách,
Tuy ở giữa trời,
Vững hơn bàn thạch,
Tôi thích nghề tôi,
Làm ăn thanh bạch.

7. NHẢY CHO TR̉N
Nhảy cho tṛn !
Nhảy cho tṛn !
Hỡi này các cháu tí hon của bà !
Thấy đàn cháu nhỏ như hoa,
Rừng xanh cũng phải ngắm mà nỉ non.

Nhảy cho tṛn !
Nhảy cho tṛn !
Hỡi này các cháu xinh ḍn của ông !
Thấy đàn cháu nhỏ chơi đông,
Bướm ong phấp phới trên đồng cỏ non.

Nhảy cho tṛn !
Nhảy cho tṛn !
Hỡi này các cháu, các con trong nhà,
Thấy con, thấy cháu thuận ḥa,
Đàn chim vỗ cánh bay ra hát mừng.

8. GÀ GÁY SÁNG
Cúc cù cu !
Sáng rồi đây !
Dậy thôi ! các bác đi cày nhà ta !
Ruộng nương đồng đất bao la,
Trâu ḅ đợi bác cùng ra cấy cầy.

Cúc cù cu !
Sáng rồi đây !
Học tṛ tỉnh dậy đi ngay nhà tràng.
Học sao ngoan ngoăn giỏi giang,
Học sao đổi mới dân làng, ấy hay !

Cúc cù cu !
Sáng rồi đây !
Thợ thuyền mau dậy đi xây cửa nhà.
Cho người có chỗ vào ra,
Vợ chồng, con cái, mẹ cha, xum vầy.

Cúc cù cu !
Sáng rồi đây !
Đường buôn nghiệp bán, ngủ ngày c̣n chi.
Dậy mà rấn bước ra đi,
Quản ǵ nam, bắc, quản ǵ đông, tây !

Cúc cù cu !
Sáng rồi đây !
Đời người độ một gang tay là cùng.
Nửa ngày c̣n đắp chăn bông,
Sống mà như thế, thực không bổ ǵ.

9. RU EM
Kĩu ca kĩu kít !
Chị đưa em bổng tít hơn đu !
Ban ngày nhà vắng thầy u,
Em nằm nghe chị hát ru vui nhà,

Kĩu ca kĩu kít !
Chị đưa em bổng tít lên cao.
Ru em, em ngủ đi nào,
Miệng em như cái nụ đào nở hoa.

Kĩu ca kĩu kít !
Chị đưa em bổng tít tuyệt vời.
Em tôi hết ngủ lại chơi,
Chớ không khóc đứng khóc ngồi xấu xa.

Kĩu ca kĩu kít !
Chị đưa em bổng tít lên không.
Em tôi ngủ một giấc nồng,
Hay ăn chóng lớn yên ḷng mẹ cha.

Kĩu ca kĩu kít !
Chị đưa em bổng tít lên mây.
Em tôi tuy nhỏ mà hay,
Đáng trông đáng đợi cho ngày mai sau.

10. RUNG RĂNG
Rung răng rung rẻ …
Giắt trẻ đi chơi,
Đến chỗ mát giời,
Chớ nên bỏ phí;
Thở làn không khí,
Vừa sạch vừa trong;
Ḷng đă hả ḷng,
Thân càng mạnh mẽ.

Rung răng rung rẻ …
Giắt trẻ đi chơi,
Đến chỗ đông người,
Nếu không nh́n kỹ,
Người ta vô ư,
Chân dẵm phải chân,
Đau đớn muôn phần,
C̣n chi vui vẻ !

Rung răng rung rẻ …
Giắt trẻ đi chơi,
Qua chỗ rănh, ng̣i,
Gần nơi than lửa,
Nếu trông ngang ngửa,
Liều lĩnh bước chân,
Bẩn áo, cháy quần,
C̣n chi sạch sẽ !

Rung răng rung rẻ …
Giắt trẻ đi chơi,
Nhọc ta mệt ngồi,
Tỉnh tao lại bước,
Mắt coi đằng trước,
Chân chẳng lùi sau,
Dạo khắp hoàn cầu,
Rung răng rung rẻ…

11. ĐỒNG HỒ TREO
Lúc la lúc lắc !
Tích ta tích tắc !
Ngày ngày đêm đêm.
Chỉ giờ, chỉ khắc …

Người đời nhờ tôi,
Lúc làm, lúc chơi,
Có giờ, có giấc,
Ngày thức, đêm ngơi.

Lúc la lúc lắc !
Tích ta tích tắc !
Tháng tháng năm năm,
Chỉ giờ chỉ khắc …

Trời sinh ra người,
Người sinh ra tôi,
Tôi đă làm lụng,
Người chớ biếng lười.

Lúc la lúc lắc !
Tích ta tích tắc !
Kiếp kiếp đời đời !
Chỉ giờ, chỉ khắc …

12. CÁI DIỀU
Xương tre ḿnh giấy,
Sợi chỉ buộc chằng,
Ngày gió đêm giăng,
Cất ḿnh bổng tít,
Trên cao mờ mịt,
Dưới rộng mênh mang,
Sông trắng đất vàng,
Rừng xanh núi đỏ.
Trông vời đây đó.
Xiết mấy tỏ tường.
Nếu chẳng tơ vương,
Mắt c̣n rộng nữa ! *

(*) Riêng câu kết bài này cần được xét lại. Ai cũng biết – kể cả các em nhỏ vùng quê – con diều tùy lớn bé mà lên được một độ cao tối đa, quá mức đó, dây thả ra sẽ bị chùng và trở thành sức nặng kéo con diều xuống thấp hơn. Đến như con diều “nếu chẳng tơ vương” nghĩa là không có dây th́ làm sao ở thế đứng được gió mà bay bổng lên cao ? Trẻ con nhà quê nào mà chẳng biết cảnh khôi hài của con diều đứt dây. Để tránh những điều mâu thuẫn vừa tŕnh bày, nhà giáo tiểu học khi đem dạy bài này có lẽ nên đổi hai câu cuối thành : “Càng nới tơ vương, mắt càng rộng mở”. Và v́ có sự tự ư thay đổi như vậy nên cuối bài phải đề là : Phỏng theo bài Cái Diều của Nam Hương.

13. HẠT MƯA
Tôi ở trên giời,
Tôi rơi xuống đất,
Tưởng rằng tôi mất,
Chẳng hóa tôi không.
Tôi chảy ra sông,
Nuôi loài tôm cá.
Qua các làng xă,
Theo máng theo mương,
Cho người giồng giọt,
Thóc vàng chật cót,
Cơm trắng đầy nồi,
Vậy chớ khinh tôi,
Hạt mưa hạt móc.

14. CÁI LỊCH
Trên tờ tranh đẹp,
Một tập giấy dầy,
Ngày ta, ngày tây,
Ngày làm, ngày nghỉ,
Biên dù tỉ mỉ,
Trông rất rơ ràng,
Mỗi ngày một trang,
Giấy bay ngày mất.
Xuân xanh chóng thật !
Hỡi chị em ơi !
Ai tiếc của giời,
Th́ coi ta đấy !
Ngày nào việc nấy,
Chớ có nhăng qua,
Lần lữa tuổi già,
Hối sao c̣n kịp !

15. NGỖNG GIỜI
Cà kíu ! Cà kíu !
Một lũ chúng tôi,
Bay bổng tuyệt vời,
Theo h́nh thước thợ,
Nhọc nhằn đă đỡ,
Nô nức càng vui.
Trong khoảng đất trời,
Cà kíu ! Cà kíu !

Cà kíu ! Cà kíu !
Kẻ trước người sau,
Lần lượt thay nhau,
Thêm bề hăng hái,
Đường mây đi lại,
Vững chăi bao là !
Nh́n xuống xa xa.
Cà kíu ! Cà kíu !

Cà kíu ! Cà kíu !
Đi suốt đêm ngày,
Biển bắc, non tây,
Nước này, châu khác,
Chẳng bao giờ lạc,
Chẳng lúc nào buồn;
Kêu gọi luôn luôn,
Cà kíu ! Cà kíu !

Cà kíu ! Cà kíu !
Hỡi bạn dưới đời,
Ai muốn dong chơi,
Đường mây lối gió,
Nay đây mai đó,
Như chúng tôi này,
Mọc cánh mà bay,
Cà kíu ! Cà kíu !

16. NGỰA GỖ
Ếp nhong nhong !
Ếp nhong nhong !
Đánh con ngựa gỗ chạy ṿng quanh sân;
Ngựa tôi chẳng chạy bằng chân,
Chạy bằng bánh sắt, cứng gân lạ lùng.

Ếp nhong nhong !
Ếp nhong nhong !
Đánh con ngựa gỗ chạy xung quanh nhà;
Những loài gà vịt lánh xa,
Kẻo mà chẹt cẳng, kẻo mà rụng lông.

Ếp nhong nhong !
Ếp nhong nhong !
Đánh con ngựa gỗ chạy trong vườn đào;
Dưới chân sỏi cuội x́-xào,
Trên đầu ong bướm bay cao chập chùng.

Ếp nhong nhong !
Ếp nhong nhong !
Đánh con ngựa gỗ chạy rong vỉa hè;
Ngựa tôi, tôi dạy phải nghe,
Gặp người th́ tránh, gặp xe chẳng lồng.

Ếp nhong nhong !
Ếp nhong nhong !
Nay c̣n bé nhỏ, chạy dông chạy dài;
Mai sau khôn lớn bằng ai,
Quyết đi ngựa thật ra ngoài bốn phương.

17. NU NA
Nu na nu nống …
Ao rộng nước trong,
Sao không rửa cẳng,
Cho trắng, cho xinh.
Để kinh, để tởm,
Để gớm, để ghê,
Đi về làm chó,
Ra ngơ coi nhà !
Nu na nu nống …

Nu na nu nống …
Chuôm rộng nước sâu,
Rửa lâu mới kỹ,
Rửa tí c̣n đen;
Ai khen chân bẩn !
Ai nhận chân gà !
Về nhà bới rác,
Đừng vác chân ra,
Nu na nu nống …

Nu na nu nống …
Hồ rộng sông dài,
Chân ai rửa khéo,
Trắng trẻo như tiên,
Ngồi trên, ở sạch
Nhà gạch, vườn cau,
Sống lâu giàu có,
Nuôi chó, nuôi gà,
Nu na nu nống …

18. CHÍ ĐI XA
Xe đạp !
Nếu có xe đạp !
Tôi sẽ quấn xà-cạp,
Tôi ngồi tôi đạp xe đi.
Một thôi vùn vụt kém ǵ gió bay !

Ngựa hay !
Nếu có ngựa hay !
Tôi chẳng phải người ngây,
Tinh sương tôi dậy đi ngay,
Một ḿnh dong duổi đó đây chơi bời.

Xe hơi !
Nếu có xe hơi !
Con đường ngàn dặm khơi,
Xe tôi có nuốt như chơi,
Bon bon đất khách quê người thiếu đâu !

Chiếc tàu !
Nếu có chiếc tàu !
Tôi tập chẳng bao lâu,
Tôi cầm lái chạy rất mau,
Đi cho biết mặt hoàn cầu vần xoay.

Máy bay !
Nếu có máy bay !
Tôi bay suốt đêm ngày,
Bay trên đỉnh tháp ngọn cây,
Sẵn sàng lối gió đường mây tung hoành.

CHÚ THÍCH : Chúng ta nên nhớ bài này được sáng tác và cho in vào năm 1936. Dưới thời Pháp thuộc đen tối đó, lũ thực dân t́m hết cách ḱm hăm người ḿnh trong ṿng ngu tối, đầu độc mọi trí tiến thủ. Cả Đông Dương (Việt, Miên, Lào) có được một khu đại học toen hoẻn nhỏ xíu, mỗi bề vài trăm thước ở Hà nội. Đừng nói đến tàu thủy, phi cơ, ngay đến chiến xa chúng cũng không để cho người Việt được tập lái. Nhưng điều đó không cấm nổi nhà thơ Nam Hương phóng tia nh́n thấy trước trong tương lai cảnh các em Việt làm quen với những máy móc tân kỳ đó như ngày nay. Cao quư thay trí tưởng tượng thênh thang vượt thời gian của những nhà văn hóa !

19. ĐI ! TA ĐI !
Đi đi !
Ta cố đi đi !
Anh em bốn bể, quản ǵ xa xôi.
Đi cho đến chốn đến nơi,
Cho chân cứng cáp, cho người nở nang.

Đi sang !
Ta cố đi sang !
Sông sâu dù chẳng đ̣ ngang đón mời.
Ta nào có chịu tháo lui,
Rủ nhau cùng xuống ta bơi làm thuyền.

Đi lên !
Ta cố đi lên !
Đồi cao ta quyết lên trên đỉnh đồi.
Núi non trót vót lưng giời,
Chưa qua, chưa phải là đời mày râu ?

Đi mau !
Ta cố đi mau !
Rập ŕu kẻ trước người sau một đoàn.
Bây giờ luyện tập cho ngoan,
Mai đây ra lính, dặm ngàn xá chi!

Đi đi !
Ta cố đi đi !

20. NHẨY
Nhẩy nhẩy nhẩy ! chúng ta cùng nhẩy !
Nhẩy lấy dài, nhẩy lấy thật cao;
Nhẩy dây, nhẩy hố, nhẩy sào …
Nhẩy đi chớ để lúc nào ngơi chân.

Nhẩy nhẩy nhẩy ! cho thân cứng cỏi,
Cho bắp chân rắn giỏi dẻo dai;
Giữa đường gặp bước chông gai,
Kém gân luyện tập khó bài vượt qua.

Nhẩy nhẩy nhẩy ! nhẩy ra lối nhẩy !
Nhẩy cho người coi thấy khỏi khinh;
Trước là đủ sức giữ ḿnh,
Sau là thừa sức ta binh vực người.

Nhẩy nhẩy nhẩy ! nhẩy cười, nhẩy thích,
Nhẩy vui chơi mà ích mà hay !
Nhẩy cho đá mỏng chân dày,
Nhẩy cho sỏi dậy, cát bay tung trời.

21. HÈ
Ngoài đường giời nắng chang chang,
Cảnh đời nay đă bước sang mùa ṇng.
Chúng ta thi cử vừa xong,
Như người thợ ngơa hoàn công trở về.

Đầy đường hoa rụng đỏ hoe,
Chúng ta sắp sửa vào hè tới nơi.
Tỉnh thành, ai muốn nghỉ ngơi ?
Nhà quê, băi bể mát giời biết bao !

Gió đưa bông gạo bay cao,
Chúng ta ai chẳng ước ao cho ḿnh !
Suốt năm cắm cúi học hành,
Giờ thèm quyển sách, trời xanh, biển hồng.
Ve kêu như giục tấm ḷng,
Chúng ta sắp được thong dong chơi bời.
Nghỉ hè nên nghỉ, ai ơi !
Nghỉ chơi cho lớn con người một phen.

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17