Sáng ngày ra đứng Cửa Đông
Xem một quẻ bói lộn chồng được chăng
Ông thày gieo quẻ nói rằng
Lộn thì lộn được nhưng năng phải đòn
Mồ cha đứa có sợ đòn
Miễn là lấy được chồng giòn thì thôi.
Đò tôi ở bến sông Dâu (2)
Buôn chè mạn hảo tháng sau mới về
Lênh đênh ba bốn chiếc thuyền kề
Chiếc về Hà Nội chiếc về Vạn Vân
Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng
Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng
Nửa thì mình đắp, nửa phòng tình nhân.
Trung Màu chuột nhắt xáo dưa
Kỳ Lân nấu cháo cả cua lẫn càng
Đổng Viên mặc ục khoai lang
Phù Đổng cơm tấm giần sàng khỏe ghê
Đổng Xuyên mỗi người mỗi nghề
Lớn thì đánh xiếc, bé thì mò tôm
Phù Dực đi bán vải non
Chửa đi đến chợ mía don đầy lồng
Tấm gốc, tấm ngọn phần chồng
Còn bao tấm giữa để vào lòng mà ăn.
Công Đình cưa xẻ đã quen
Tế Xuyên bắt rẽ lấy tiền mua nhiêu…
Nhân Lễ thì đúc lưỡi cày
To Khê Viên Ngoại thì hay hàn nồi
Xa Long lắm chuối mình ơi
Phù Ninh dệt vải người người thâu đêm.
Từ khi Tự Đức lên ngôi
Vỡ đường Thiệu Trị vỡ đôi năm liền
Mong cho thiên hạ lòng thuyền
Trong làng lại có chiếc thuyền đi qua
Vỡ từ cửa ô Yên Hoa
Nhật Tân, Quảng Bá vỡ ra Tây Hồ
Thụy Phương trôi mất mả mồ
Kẻ Vòng, kẻ Cót xôi đồ làm ăn
Kẻ Trôi, kẻ Gối, kẻ Đăm
Nước vào đến vách biết nằm nơi nao
Giời làm cả huyện lao đao
Ăn đói nhịn khát những đau ruột rà
Mong cho nước xuống nước ra
Để mà buôn bán gần xa trong đồng.
Để mà tính chuyện canh nông
Mắt nhìn dòng nước mênh mông mong hoài
Thòm thòm trống điểm canh hai
Nửa đêm gà gáy mười hai tháng thừa.
Từ ngày có Phú Lãng Sa
Văn minh thì ít, trăng hoa thì nhiều
Văn minh khắp cả Tây, Tầu
Ông sư cũng húi cái đầu năm xu
Văn minh khắp cả gần xa
Sư ông xe đạp, sư bà xe tay.
Lòng em như thạch, sạch như gương
Anh chẳng thương thì chớ còn mang lòng ngờ
Nếu em ngang tắt đi về
Anh đem xuống miếu Cậu, em thề cho coi
Ngay gian xin Cậu xét soi
Em gian thì Cậu gọt gáy bôi vôi em này!
Ba Biều chí dũng gan liền
Tả xung hữu đột, trận tiền chỉ huy
Đạn của giặc tứ vi bắn lại
Biều chẳng may bị phải trọng thương
Khen thay khí tiết kiên cường
Trước khi tắt thở khẩn trương dặn dò:
Khuyên đồng đội đánh cho quyết liệt
Dẫu hy sinh tử tiết không hàng
Dặn xong xuống cõi suối vàng
Nghĩa quân thương tiếc hai hàng châu sa.
Bấy lâu ta ở với ta
Bây giờ có Phú-lang-sa lọt vào
Bây giờ đất thấp trời cao
An Nam, Quảng Tống phải vào lụy Tây
Bây giờ khố bẹ đi giày
Bờ lau nên phố, đĩ nay lên bà
Mấy đời con đĩ nên bà
Thau rau đắc thế, bà già thất kinh
Bấy lâu vua trị một mình
Bây giờ Nhà nước đã rành chia đôi
Văn nhân khoa mục ở rồi
Những phường dốt nát lên ngồi làm quan
Những anh phơ phất loàng xoàng
Làm bồi làm bếp ra ràng cậu chiêu
Các quan trung nghĩa trong triều
Về nhà ngồi xó liệu chiều thủ thân
Những quân vô nghĩa, nịnh thần
Tìm thày, tìm cách lần lần thăng quan
Trị dân lắm sự tham tàn
Kiếm tiền kiếm bạc mới toan bằng lòng
Muốn cho bể lặng, sông trong
Cách hết lũ ấy mới mong thái bình.
Năm Quý Dậu, tàu vào vừa tới
Người Bắc Kỳ rằng mới biết Tây
Rủ nhau xem sóc thâu ngày
Đem quân về đóng ở rày Trường Thi
Tờ niêm yết Ngạc-nhe An-nghiệp
“Đường giao thông tiến tiếp lại qua
Xa nghe đồn tỉnh Bắc Hà
Giặc Tàu quấy rối vậy mà đến đây”
Các quan tỉnh nghi nghi hoặc hoặc
Những bàn riêng rằng “giặc bên chân”
Tháng mười, mồng một, giờ dần
Ầm ầm hạ tỉnh là lần ngày xưa
Khi ấy có Khâm thừa quan Nguyễn
Cha con đều ngộ biến thất cơ
Phò Lâm mắc cạn bây giờ
Cha già tuyệt thực còn chờ quyên sinh
Các quan sau quyết tình lên thứ
Ông thamTôn tức sự khởi hành
Đem quân về đóng Diễn, Canh
Nhơn nhơn thu phục tỉnh thành về ta.
Chốn Thăng Long thật là thượng đẳng
Xui tướng Tây quyết thắng tiến truy
Thất cơ phải chú Hắc Kỳ
Ngoài ô, một trận, Ngạc-nhe qua đời
Khách các hiệu rụng rời nhao nhác
Dọn vần tay đồ đạt xuống tàu
Giữa dòng chiếc trước, chiếc sau
Ra ngoài Ninh Hải để hầu về Nam
Quan thừa thắng, điên bàn tướng sĩ
Bất thình lình có chỉ Kinh ra
Chuộc thành mà lại giảng hòa
Định, An, Ninh Hải tới Hà Nội đây
Quan Hoàng thống nghe rày bứt rứt
Lưu Hắc Kỳ kéo phứt lên Ngâu.
Phá ngang việc ấy bởi đâu
Nhà công xế bóng, cửa chầu lỏng then.
Sai quan Nguyễn VănTường chánh sứ
Hoắc-đạo-sinh thủ thứ là đây
Quan Nam với lại quan Tây
Sửa sang khi ấy dân rày được yên
Việc thanh khoản chi truyền về bộ
Quan Nguyễn Tường thăng Hộ thượng thư
Qua năm Giáp Tuất, tháng tư
Thấy quan Nguyễn Chánh phụng từ kinh ra
Điều niêm yết mới hòa ước đó
Gẫm kỹ xem có khó nghe thay!
Non sông cao rộng thế này
Nào người trí dũng, nào tay anh hùng?
Quan Tăng Doãn rằng: - Vâng thánh chỉ
Tỉnh Hải Dương lĩnh ý phải ra”
Quan tư với lại quan ba
Tìm nơi Hà Nội lập tòa Tràng Tây
Thấy phố xá người đầy, đất hẹp
Nhà thứ dân rộn rịp chỉn khôn
Thênh thênh sẵn chốn Thủy Đồn
Làm tòa ở cạnh ô môn Trường Tiền
Khai Thương chánh, thu biên thuế thủy
Cùng quan ta quản lý thâu chung
Rồi sau mới lập ngoài sông
Nhà cao ngất ngưởng bên sông Nhị Hà…
Nàng khoe tam cúc nàng cao
Nên tôi hân hạnh được vào dự chơi
Ba cô ngồi ở ba nơi
Với tôi là bốn, đều ngồi khang trang
Thoạt đầu đảo đảo, trang trang
Bắt cái tam tịnh cái nàng gần tôi
Sau khi bài đã chia rồi
Mỗi người có tám cây bài trên tay
Cầm bài tôi liếc thấy ngay
Có hai tốt đỏ lại kèm tốt đen
Kế đế là đôi xe đen
Bộ ba tướng trắng còn kèm trên tay
Bài tốt tôi dục gọi ngay
Cô nàng gọi "một" đánh ngay sĩ điều
Được rồi nàng gọi tiếp "đôi"
Đánh đôi mã đỏ rồi ngồi đợi xem
Lá nầy tôi ra xe đen,
Bắt đôi mã đỏ làm nàng xuýt xoa
Được rồi tôi mới gọi "ba"
Tướng sĩ tượng đỏ nàng ra bắt liền
Bắt rồi hạ kết tốt đen,
Cả làng xúm lại để xem bài nầy
Trách em bé, đứng cạnh tay
Tánh nết nhanh nhẩu, nói ngay một lời
Sao bác dại thế bác ơi
Có đôi tốt đỏ toan chui không đè
Không dè, làng cũng không nghe
Nàng đành phải chịu tôi đè tốt đen
Bây giờ sự đã quả nhiên
Nầng đành móc túi, xỉa tiền ra chung
Nón em đang đội trên đầu
Anh mà giật mất dạ sầu em thay
Lấy gì mà đội hôm nay
Anh mua nón khác, nón này em xin
Nón em chả đáng đồng tiền
Chưa kết được bạn chưa yên cửa nhà
Nón em mua ở tỉnh xa
Mua ở Hà Nội quan ba mươi đồng
Trở về gặp khách má hồng
Sao anh ăn ở ra lòng thờ ơ
Mua nón, em phải mua tua
Nón này thày mẹ em mua rành rành
Nhẽ đâu em để cho anh
Về nhà mẹ mắng, em đành bảo sao.
Chăm sao cho lá dâu dày
Để khi kéo kén cho đầy nong tơ
Dâu non em để tằm tơ
Dâu già đến cữ em chờ tằm khôn
Đã mang lấy cái thân tằm
Không vuơng tơ nữa vẫn nằm trong tơ.
Chàng đi vực thẳm non cao
Em mong tìm vào đến núi Tản Viên
Bao giờ lở núi Tản Viên
Cạn sông Tô Lịch chẳng quên nghĩa người
Nghĩa người em để trong cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi em nằm
Mỗi ngày sáy bảy lần thăm.
Hỡi cô mà thắt bao xanh
Có về Kim Lũ với anh thì về
Kim Lũ có hai cây đề
Cây cao bóng mát gần kề đôi ta
Tình sâu không quản đường xa
Nhà anh cao rộng cũng là nhà em
Nhà anh có con sông êm
Cho em tắm mát những đêm mùa hè.
Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng.
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên Ô hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nứa gẫy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.
Tôi đây là người đi chơi
Chơi chốn lịch sự, chơi nơi hữu tình
Mới đi chơi ở Bắc Ninh
Chạy tàu Hà Nội sự tình xem sao
Đồn vui tôi bước chân vào
Chơi hội kỳ thú chơi đôi ba ngày.
Gần xa nô nức tưng bừng
Vào Chùa Quan Thượng xem bằng động tiên
Lầu chuông gác trống đôi bên
Trông ra Chợ Mới Trường Tiền, kinh đô
Khen ai khéo vẽ họa đồ
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ Hoàn Gươm
Phong quan cảnh trí trăm đường
Trong xây chín giếng, ngoài tường lục lăng
Rõ mười cử động tưng bừng
Đền vàng nhà ngọc chật đầy như nêm
Đức Từ phơi tỏ mùa sen
Thập phương chư Phật ngồi trên đủ mười
Xem qua Tam Bảo xong rồi
Hành lang nhà hậu các nơi rõ ràng
Kẻ thanh lịch, khách quyền sang
Vào chùa lễ bái mọi đàng vui xem
Ai mô vui cảnh ưa thiền
Lòng trần rũ sạch nhơn nhơn ra về
bước lên hòn đá xanh rì
Nhìn xem phong cảnh, chẳng muốn về nữa đâu
Gần xa nô nức tưng bừng,
Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên.
Lầu chuông, gác trống đôi bên
Trông ra chợ Mới, Tràng tiền kinh đô.
Khen ai khéo vẽ họa đồ,
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ Hoàn Gươm.
Tháng tám nắng rám trái bòng
Bồ không hạt thóc, trông mong từng ngày…
Vui sao tháng tám ngày nay:
Thóc chiêm vừa vợi đã đầy Nam Ninh.
Bén mầu luống cải lên xanh
Ngô thơm mùi nắng để dành giêng hai.
Mới ra mẻ gạch lò ngoài
Nhà ai cuối xóm đã tươi mái hồng.
Đầm trong sen hái vừa xong.
Đầy sân hợp tác sen hong nắng vàng.
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài
Sinh ra đèn máy thắp hoài năm canh
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường
“La ga” thì ở Thụy Chương
Dây đồng cột sắt tìm đường kéo lên
Bồi bếp cho chí bồi bàn
Chạy tiền ký cược đi làm sơ-vơ
Xưa nay có thế bao giờ
Có cái tàu điện đứng chờ ngã ba.
Đàn ông cho chí đàn bà
Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên
Ba xu ghế gỗ rẻ tiền
Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng
Năm xu ngồi ghế đệm bông
Hỏi mình có sướng hay không hở mình?
Thành Nam cảnh trí an bài
Phố phường trên bộ, vạn chài dưới sông.
Nhất thành là phố Cửa Đông
Nhất lịch Hàng Ghế, Hàng Đồng, Hàng Thao
Hàng Giầy đẹp khách yêu đào
Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn Nhân
Ba năm một hội phong văn
Lại lều lại chõng về thăm Cửa Trường.
Ngọt ngào lên đến Hàng Đường
Say sưa Hàng Rượu, phô trương Hàng Cầm
Hàng Tiện, Hàng Sũ, Hàng Mâm
Gặp nhau Bến Gỗ, vui sân một nhà.
Hàng Cót, Hàng Sắt bao xa
Ai về Bến Ngự rẽ ra Khoái Đồng.
Vải Màn nhỏ chỉ, nõn bông
Hàng Cấp dệt lĩnh, Hàng Song buôn thừng.
Hàng Dầu, Hàng Lạc, Hàng Vừng,
Hàng Nâu tươi vỏ đỏ lòng vốn quen
Hàng Vàng lắm bạc nhiều tiền
Hàng Sơn gắn bó gần bên Hàng Quỳ.
Trăm năm nghĩa bạc tình nghi
Hàng Đàn, Hàng Ghế chung nghề thủ công.
Cột Cờ lên đó mà trông,
Đò Chè lơ lửng bến sông cắm sào.
Phố khác buôn bán vui sao,
Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người.
Hàng Dầu, Hàng Mã, Hàng Nồi,
Hàng Trống, Hàng Thiếc, lên chơi Hàng Thùng
Hàng Cau, Hàng Nón, tưng bừng,
Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây
Thấy anh áo lượt xênh xang
Đồng hồ quả quít, nhẫn vàng đeo tay
Cái ô lục soạn cầm tay
Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều
Các cô trông thấy mỹ miều
Chạy theo thỏ thẻ những điều nhỏ to
Thôi đừng chuyện nhỏ chuyện to
Đến tháng lĩnh bạc anh cho vài đồng
Mồ cha những đứa nói không
Đến tháng lĩnh bạc một đồng chẳng cho.
Ai về đừng bảo cầm khăn
Có một đồng bạc để dành cưới em
Ba hào thời để mua tem
Mời hết thiên hạ anh em xa gần
Cưới em ăn uống linh đình
Sơn Tây, Hà Nội đồn mình lấy ta
Một hào anh mua con gà
Hào hai đi chợ, hào ba đi tàu
Năm xu mua gói thuốc lào
Hào tư mua gói chè tầu uống chơi
Một hào đong gạo thổi xôi
Năm xu mua thịt, còn thời rau sưa
Anh ngồi anh tính cũng vừa
Cưới em đồng bạc còn thừa một xu.
Quê ta đẹp quất Tây Hồ,
Tơ vàng kén mượt đầy bồ Tứ Liên.
Hữu Hưng dệt lụa hoa hiên
Cò bay bướm lượn in trên lụa đào.
Cam Canh, bưởi Mỗ ngọt ngào,
Mát lòng cải bắp, su hào Trung Kiên.
Mình về Nguyên Xá mà xem
Vườn hồng trĩu quả, chuối nêm kín làng.
Mễ Trì thơm gạo tám xoan.
Dự hương, gié cánh thóc vàng như tơ.
Gửi người dệt bộ bài thơ
Phùng Khoang gấm đẹp còn chờ tay ta.
Cốm Vòng nức tiếng gần xa,
Cau non Dịch Vọng, tiếng gà thôn Viên.
Đường vào Cổ Nhuế vẫn quen
Máy khâu rộn rã, mía chen vai người.
Hai Xuân như đẻ sinh đôi
Cánh diều chung sáo, mương khơi chung đào
Trên mình xanh thắm bí đao
Dưới ta lúa tốt khác nào rừng xanh
Vải thiều đỏ rực đầu cành
Thơm mùi cam Cáo, ngọt canh đậu Giàn.
Xuân La lợn béo bao đàn,
Trắng phau cá lội, dịu vàng khoai tây
Mình về ta nắm lấy tay
Ta dặn câu này mình chớ có quên:
Khỏa chèo mình ngược bến Chèm
Viếng Lý Ông Trọng, hoa chen mái đình
Giò Chèm ai gói xinh xinh
Nắm nem làng Vẽ đậm tình quê hương.
Chuối Sù mập quả trăm vườn
Sang thu hương chuối quện hương cốm Vòng.
Hoa đào dệt lối Nhật Tân
Yêu quê hoa nở đầy sân lụa đào.
Ở đâu hợp tác công cao
Rẽ vào Quảng Bá xem nào đâu hơn.
Rau xanh kín bãi kín vườn
Hương sen thoang thoảng cho thơm tóc mình
Tung tăng đàn cá lượn quanh
Ta giăng lưới bạc rung rinh mặt hồ.
Quên sao giấy điệp Nghĩa Đô
Tiếng chày nện sợi, câu hò nhặt khoan
Ai xeo cho giấy mịn màng
Đẹp màu tranh mới xuân sang quê nhà.
An Phú dẻo kẹo mạch nha
Lợn hồng da mượt như là trong tranh.
Ở đâu thơm húng thơm hành
Có về làng Láng cho anh theo cùng
Theo ai vai gánh vai gồng
Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô.
Trời cao lồng lộng sao cờ
Phi lao vi vút đôi bờ Nhuệ Giang
Chập chùng nhà máy công trường
Đỏ tươi mái ngói, mây vờn khói bay.
Lòng ta như tỉnh như say
Mình nghe! Kìa tiếng máy cày xa xa…
Quê ta đẹp lắm quê ta
Trăm mầu nghìn sắc quê nhà: Từ Liêm.
Quý Tị giữa ngày mồng Năm
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo xuống, tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu Tương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường giáo mác nằm kề năm năm
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Nam Đồng
Rạng ngày mồng Sáu cờ dong lai hàng
Vua ban sứ bộ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa.
Trên trời có một ông sao
Chỗ quang chẳng mọc mọc vào đám mây
Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn
Nhị vườn đào biết vạn nào hoa
Đưa nhau một quãng đường xa
Hỏi thăm anh Tú có nhà Cửa Nam.
Trên trời có sao tua rua
Ở dưới Kẻ Chợ có vua đúc tiền
Ruộng tư điền ai không cày cấy
Hỏi cô mình có lấy anh chăng
Mười hai cửa bể anh đã cắm đăng
Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào.
Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.
Trèo lên cây gạo cao cao (4)
Bước xuống hội Gióng vui sao vui vầy
Giáo gươm cờ xí trùng trùng
Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay
Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày
Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyền.
Nhớ thuở có loạn Tống binh
Đức vua ngự giá thân chinh về làng
Cửa nhà giặc đốt tan hoang
Lợn bò giặc bắt, đường làng vắng tanh
Người người cầu khấn thánh linh
Có Thánh Phù Đổng hiện hình cứu dân
Đôi bên giáp trận ầm ầm
Đầu rơi kín đất, máu đầm cỏ cây.
Gươm khua, ngựa xéo, voi giày
Giặc như kiến cỏ chúng quay ra hàng
Đức vua ngự giá hồi loan
Đổi tên Bình Lỗ cho làng Vệ Linh
Khao quân mở tiệc linh đình
Tạ từ Thánh Sóc hiển linh giúp vầy
Dựng đền, tạc tượng vào đây
Truyền sai dân chúng tháng ngày khói hương.
Nhớ xưa liệt sĩ bốn người
Ở trong ban lính đóng nơi La Thành
Đôi phen trận mạc tập tành
Thấy người xe ngựa, tủi mình non sông
- Nay tôi có chước lập công
Ở trong tôi đã ám thông với bồi
Chờ khi nó trúng độc rồi
Thẳng lên kho súng giết người lính canh
Lấy được súng, kéo vào thành
Ba tòa chiếm thủ, chi binh ba đường
Đất bằng nổi tiếng sấm vang
Ông Đề xuống lấy Bắc Giang tỉnh thành
Tuyên Quang, Thái, Lạng, Nghệ, Thanh
Bốn phương hưởng ứng dẹp bình như chơi.
Ông Bình nói chửa hết lời
Hai bên đứng dậy, người người vỗ tay
Tức thì ba đạo chia ngay
Hữu kia Nguyễn Cốc, tả này Đặng Nhân
Ông Bình là chủ trong quân
Ông Nga làm phó ba quân cứ lời
Cùng nhau bộ thự vừa rồi
Mở ra sáp huyết làm lời ước minh
Ngày hai mươi chín bình minh
Nghe nó trúng độc thì mình động ngay
Lạ thay không cánh mà bay
Cơ mưu nó biết, ngày ngày nó trông
Hai mươi chín, bẩy điểm chung
Nó ăn phải độc chưa xong nửa phần
Vô tình phải đứa bất nhân
Đem tin báo với Pháp quân tức thì
Thôi thôi còn có kíp gì
Hùm kia đến lúc xa ki cũng hèn
Pháp doanh nghe động tiếng kèn
Trong thành bốn mặt bổ liền quân vây
Chẳng qua một rủi, một may
Chậm cho mươi phút sự này hẳn xong
Thương thay thất bại anh hùng
Tấm lòng đối với non sông thẹn gì
Gan vàng, dạ đá tri tri
Ông Bình đến chết coi thì như không
Vừa cười vừa nói ung dung
Bên đường trông thấy ai không sụt sùi
Ông Nga vừa bắt đến nơi
Pháp quân dò hỏi mấy lời thủy chung
Rằng: - Anh là kẻ có công
Và ơn Nhà nước cũng không bạc gì
Cớ sao mưu phản làm chi?
Những ai đồng đảng nói thì tha ngay!
Nghe lời nghiến lợi cau mày
Mắng rằng: - Pháp tặc nói hay làm gì
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Một năm lương thuế toàn kỳ
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Gọi to một tiếng “Đồng bào!”
Hồn thiêng theo trận gió ào lên mây
Ôi thương thay! Ôi thương thay!
Kể sao cho xiết chết lây những người
Văn minh thật đã lạ đời
Đàn bà giết cả đến người hàng cơm
Thôi thôi trâu béo cỏ rơm
Trăm nghìn phó một mũi gươm là rồi
Khen cho liệt sĩ bốn người
Một lòng vì nước muôn đời tiếng thơm…
(Vè Liệt sĩ 4 người)
Nhác trông lên mái Nhà Thờ
Đồng hồ đã điểm chín giờ chàng ơi
Vì dù chàng có thương tôi
Mình ra Hà Nội chụp đôi cái hình
Khi nao thanh vắng một mình
Nhớ ai tôi lại giở hình ra xem.
Nhắm ai hoa thắm lòng tay
Ngát hương Hữu Tiệp mà say Ngọc Hà.
Hoa thơm dải áo sẻ tà
Thơm thơm lá phiếu của ta của mình.
Nhắn ai ươm ngọn dâu xanh
Tơ vàng Tầm Xá uốn quanh sông Hồng.
Ví dù con bế con bồng
Phiếu tươi nét chữ đẹp lòng cả đôi.
Nhắn ai chèo lái ngược xuôi
Thuyền qua Thái Thủy dừng nơi bến Chèm.
Cắm sào quen lại thêm quen
Hẹn năm ba hẹn: chờ quên phiếu bầu.
Nhắn ai se chỉ bấy lâu
Tây Hồ vấn vít trăm mầu tơ vương.
Có đi chung lối chung đường
Chờ chung lá phiếu mà vương chỉ hồng.
Nhắn ai quê ở bên sông
Phú Viên cau thắm trầu không mấy mùa.
Phiếu bầu buổi sớm hay trưa
Để trầu cau gửi cho vừa lòng ai.
Nhắn lời xin giữ lấy lời
Mừng ngày bầu cử thêm vui xóm làng
Ước gì nắng đỡ hanh vàng
Để ai nghiêng nón qua làng cùng đi…