Mẹ ơi! con chẳng lấy dân
Dù xa dù gần lấy khách mà thôi
Lấy khách được mặc áo đôi,
Được đi giày đỏ, được ngồi ghế cao,
Thà rằng ăn cá cho cam,
Lấy khách, con phải để cái đuôi sam trên đầu!
Thành thị chỗ nào cũng xí xô xí xào khách trú
Em ăn cơm bảy phủ, dạo đủ khắp nơi
Bán buôn một vốn ba bốn tiền lời
Chê anh dân ruộng, chơn mốc cời quanh năm
Biết đâu là cầu Ô Thước?
Mênh mông nguyện ước, dưới nước trên trời.
Đêm khuya ngớt tạnh mù khơi,
Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng.
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn,
Chèo qua Ngọc Trản, đến vạn Kim Long.
Sương sa gió thổi lạnh lùng,
Sóng xao trăng lặng gây lòng nhớ thương.
Tiếng hát ngư ông, giữa sông Bành Lệ,
Tiếng ngư đàn nhạn, giữa áng hoàng dương.
Một mình em đứng giữa sông Hương,
Tiếng ca du nữ đoạn trường ai nghe?
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược,
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang.
Thuyền em xuống bến Thuận An,
Thuyền anh lại chảy lên ngàn, anh ơi!
Bến chợ Đông Ba, tiếng gà gáy sáng.
Bên làng Thọ Lộc, tiếng trống sang canh.
Giữa sông Hương, dợn sóng khuynh thành
Đêm khuya một chiềc thuyền tình ngửa nghiêng.
Mở lời chào lân gia cho chí lý gia
Chào xuống Đông Lãnh chào qua Đông Bàn
Trường này lập điệu hò khoan
Trai nam thanh gái nữ tú băng ngàn đến chơi
Điệu hò khoan hát hố khiến đôi bạn hường
Đông tây nam bắc tứ phương anh hào
Mở lời chào Hạng Võ tài cao
Chào quanh Hạng Bá chào vào Hạng Lương
Rượu quỳnh tương chén ngọc ve vàng
Trước tui mời anh em lưu hữu sau mời chàng Phạm Tăng
Xưa rày yến ẩm đôi phen
Bữa ni ngộ gặp dựng cái lễ kim bằng Thoại Hương.
Bồng bồng nẩy lộc ra hoa
Một đàn vợ lính trẩy ra thăm chồng
Trẩy ra gánh gánh gồng gồng
Trẩy ra thăm chồng, bảy bị còn ba
Nào ai nhắn nhủ mi ra
Mà mi lại kể con cà con kê
Muốn tốt thì đưa nhau về
Việc quan anh chịu một bề cho xong
Xưa kia anh ở trong phòng
Bây giờ anh đã vào trong hàng quyền
Hai tay bưng dĩa trầu lên
Trước lạy hàng quyền sau lạy cậu Cai
Chồng tôi ham sắc ham tài
Một chĩnh đôi gáo tôi ngồi sao yên
Tôi xin chiếc đũa đồng tiền
Anh đi lấy vợ tôi xin lấy chồng
Thương nhau chớ quá e dè,
Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be .
Thiếp nói thì chàng phải nghe,
Thức khuya, dậy sớm, làm che l ngày 12 xu,
Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo ,
Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình,
Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau,
Lạy trời, mưa xuống cho mau.
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng .
Trời làm phân bạn rẽ đôi
Tháng mười lạnh lẽo mồ hôi ra ướt dầm
Đau trong lòng thác thể kim châm
Muôn vàng có đó người tầm không ra
Chinh chinh bóng xế con trăng tà
Bạn buồn dã dượi đi ra dạo vườn
Thấy đôi chim én liệng cành hường
Tư nhơn đố vật xót thương mối tình
Dời chưn ra chốn lê đình
Trời không soi xét hai đứa mình cơ hội ni
Sách có câu hổ tử hồ bi
Vật còn tưởng vật huống chi duyên thiếp chàng
Phải chi trên trời có ngõ bắc thang
Ta lên hỏi thử ông tơ bà nguyệt cớ can chi mà lìa
Mền loan nệm gối phân chia
Loan phòng vắng vẻ đêm khuya lạnh lùng
Phải chi họa đặng hình dung
Xa nhau một tháng ta tạm nhìn cho bót thương
Ngó lên miễu Một ngọn hương chưa tàn
Tưởng tình tình lại biến tan
Gánh chung tư em để anh mang về làng
Chao ôi căn số linh đinh
Nay chừ chia rẽ tội cho tình tình ơi!
Trời làm tháng bảy mưa ngâu
Để cho Ô thước bắc cầu sang sông
Hán Việt,Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị,
Vâng lời troàn ngươn soái
Mình đeo ấn Tổng nhung
Lời khuyên rao chư sĩ anh hùng
Mặt phải trái coi qua thời biết
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản cõi Tây phiên
Mà ham di địch tước quyền
Lại nỡ khiến tấm lòng vô hậu
Chớ bắt chước những loài quân dậu
A dua hùa lưng lớn thờ chồn
Đừng bày theo những đảng ác côn
Ngưỡng mặt dọc mượn hơi lũ cáo
Người Nam bang hữu đạo
Chúa minh quân ơn đức đã trôi dầm
Hai mươi năm trường trị cửu yên
Dành dụm nghiệp Nam triều ba mươi tỉnh
Ngưỡng xem đức hoá ra ơn Thuấn
Đã lâm nhuần thiên hạ gội nhơn Nghiêu
Rưới khắp cả muôn dân
Bắc Nam cúi mặt xưng thần
Tứ hải cúi đầu cống lễ
Thưởng trăm họ ghe lòng lớn bé
Vua ta đều tha thuế
Cám muôn dân ruộng khô hư phế
Canh điền vua cũng tha phô
Ba năm dư thẩm xét tù đồ
Lai miễn tử xá sanh nhơn chánh
Ấy ví tề thương hải
Còn những người thất thập tuần dư
Ngoài thời yến diên ban, trong lụa vải cũng ban
Còn những người cô độc, với những kẻ bần hàn
Xuất phủ huyện chẩn bần, chẩn tế
Còn năm hung dịch tễ
Vua ta cũng ban ân
Phát tiền tuất thân mai táng
Ớ các làng xã ơi
Bay ngưỡng mặt theo Tây cho đáng
Nỡ lòng nào phản nghịch cho yên tâm?
Mả Nguỵ Khôi sao hỡi còn lầm?
Bài trung nghĩa, miễu công thần, sao bây không tưởng?
Trên đầu có hai bên hai vác
Làm việc chi trời đất cũng hay
Ngửa xem thần còn ở trên vai
Để biên chép người trong dương thế
Tội nào trọng bằng tội phản quân phế đế
Hình nào to bằng hình đứa gian thần
Tiếc của tiền sao chẳng tiếc thân?
Thân danh trọng, của tiền mấy trọng?
Vua thời dụng thánh đời, người dụng hiền
Dụng là dụng những kẻ tài trí kinh quyền
Dùng những kẻ trung quân ái quốc
Làm tôi con phải đền ngọn rau, tấc đất
Thời mới xong cái nợ tang bồng
Sao bình thời múa mặt xưng hùng
Cơn bác loạn kinh tâm tán loạn?
Ớ các quan viên ơi!
Lũ nào mến, lũ ta xin đừng mến
Bọn nào kinh, bọn mình hỡi chớ kinh
Nguyền gắng sức đền ơn cho quân thượng
Trời đã sanh có binh thời có tướng
Binh tướng phải hết lòng
Trời đã sanh có chúa lại có tôi
Niềm tôi chúa sao cho hết dạ
Khéo chỉ chọ cho mã tà khuấy khoả!
Mưu thày lay ai mượn phá luỹ bờ?
Phận làm tôi chẳng trọn một thờ
Không thương hại lại đam thói bạc!
Miệng niệm liến Quan Âm Bồ Tát
Lòng u ơ tưởng chúa Du De
A men, bát nhã khéo xô bồ
Thập ác, tràng phạn xui lộn lạo!
Nhà nghèo mới biết con rằng thảo
Nước rằng nguy, tôi chúa dạ biết ngay
Nên hư có một hội nầy
Sống thác cho tường mới tận
Hễ phận làm nam tử
Phải trả nợ quân ân
Hễ phận làm con dân
Phải đền ơn thuỷ thổ
Kìa là tông, nọ là tổ
Tông tổ ở đất nào?
Kìa là mẹ, nọ là cha
Cha mẹ đẻ, sao không đánh liệt?
Ớ bọn phản nghịch ơi!
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản giống Tây di
Nó là chi, nó dám tới đây?
Ta là chi, mà làm thinh ngồi vậy?
Ở đâu mà không thấy?
Loài mọi nó bất nhơn!
Tổng Định Thành chùa miễu phá tan hoang
Đồng tập trận mả mổ đào sạch quét!
Sao bây không biết xét?
Khiến dạ vô tình!
Chẳng thương tấm tượng sàng linh
Nở bỏ vùa hương trước án!
Nghĩ giận cho đáng
Hay ghét bỏ cho ưng!
Người ở đời lấy giặc làm hưng
Gầm đầu thú lấy Tây làm mạnh
Khá tua tu tỉnh
Cải ác tùng trung
Rất đỗi man di còn có một lòng
Huống chi ta là người trung quốc mà không gan ruột?
Đồn Bà Quẹo phản hồi chưa bên cuộc
Cũng vì quan, cũng vì quân không dạ cần vương
Lũy Mĩ Quý hoài đao thương
Cũng vì tướng, cũng vì binh không lòng nghĩa khí!
Chữ quân thần là đạo nghĩa
Phận làm nam tử phải trả nợ cho quân vương
Thà là nguyền ra giữa chốn chiến trường
Nhứt là nó, nhứt là ta
Đồng đánh liệt cho Tây di biết mặt!
Gẫm âu thế tình thậm ngặt
Vịnh râu dê làm mặt tài khôn
Tiếc cơm nước vua nuôi các gã
Mồ tổ phụ, cuộc táng chôn
Cho dài cửu họ, cho lớn tông môn
Đặng dương dương theo loài bất nghĩa
Tiếc cơm nước vua nuôi các ngươi
Thân cho dài, hình cho lớn, vóc cho cao
Theo loài Tây giặc, lấn Nam trào
Tám mươi kiếp, những loài vô hậu
Chữ “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
Câu “Châu nhi phục thể, thiên địa tuần hường”
Bình rồi đây ơn cũng thấy ơn
Trị rồi đây oán thời thấy oán!
Mặt đứa gian thần xem cho hãn
Danh người trung nghĩa thấy cũng tường
Nguyện ngàn năm để tiếng “Cần Vương”
Thề muôn thuở chẳng nhơ danh đất Việt.
(Vè Cần vương)