Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Cung cấp: Tieuboingoan

Thăng long Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ - 7

Nhà xuất bản Hà Nội - 2002

Giang Quân sưu tầm, biên soạn
(In lần thứ hai có bổ sung, sửa chữa)


Phần 6 - Ca Dao

410. Ngồi vui kể chuyện quê nhà
Rau tươi quả ngọt đồng ta ngoại thành
Làng Đăm cải biếc màu xanh
Làng Hàn cà bát trĩu cành xum xuê
Rau thơm đất Láng quen nghề
Hành tươi Mai Động, Yên Khê đầy đồng
Bắp cải Phù Dực sớm trồng
Yên Mỹ nổi tiếng cà hồng xưa nay
Yên Viên có món măng tây
Lại thêm cải tiếu ngọt thay hỡi mình!
Nhất cay là giống ớt Đình
Nhất thơm là mướp làng Quỳnh, làng Mai
Su hào Quảng Bá hơn ai
Hoa lơ Phú Diễn chen vai trắng ngà
Cải canh mát bãi Duyên Hà
Đông Dư cải nén mặn mà hương quê
Nhật Tân cải trắng ven đê
Muốn thăm cải củ thì về Lĩnh Nam
Tỏi tây, xà lách Xã Đàn
Đạu trạch, đậu vàng, đậu đũa Vĩnh Tuy
Muống non xơ mới Thanh Trì
Rau cần làng Sét xanh rì bờ sông
Bí xanh, bí đỏ đầy đồng
Cổ Loa, Tầm Xá, Nam Hồng chứ đâu
Khoai tây mời tới làng Ngâu
Thôn Quang dưa chuột giữ mầu quê hương.
Vùng rau đã kể tỏ tường
Bây giờ đất quả đưa đường vào thăm
Cam Canh, bưởi Cáo, vải Bằng
Tiếng đồn xưa vẫn còn vang quê nhà,
Chuối Giang Biên, chuối Trung Hà
Sông Hồng, sông Đuống phù sa đắp bồi
Cổ Loa mít chín thơm trời
Thành tiên lại có trám bùi trên cây
Song mai Đông Mỹ quý thay
Rừng dừa Hải Bối khen tay người trồng.
Thôn Văn ngọt nước nhãn lồng
Trưa hè Hoàng Liệt, Bắc Hồng xem dưa
Bưởi đường Vạn Phúc tìm mua
Vườn chanh Trung Phụng hoa đua trắng cành
Tây Hồ quất đỏ trời xanh
Mễ Trì chín mọng cam sành làm duyên
Xuân Đỉnh tốt giống hồng xiêm
Dâu tây ở Dịch Vọng Tiền mình ơi
Nghi Tàm lắm táo, nhiều roi
ổi ngon Quảng Bá, Quỳnh Lôi mời vào
Trung Hà đã quý chanh đào
Lại sai đu đủ ngọt ngào quê ta
Mấy vần chắp nhặt nôm na
Hoa thơm quả ngọt ai mà chẳng yêu.
Mình về ươm hạt cho nhiều
Chiết cành gây giống, sớm chiều ta sang
Trồng cây cho rợp đường làng
Xe rau chạy giữa hai hàng cây xanh
Rau tươi, quả ngọt ngoại thành
Bốn mùa xanh bãi, đỏ cành quê hương.

411. Vừa nghe tàu điện rung chuông
Leng keng đánh thức màn sương Tây Hồ.
Đường vui rộn bánh xe bò,
Lao xao Yên Phụ tiếng hò gọi nhau.
Hỏi mình: - Chuyên chở về đâu
Ngụy trang xanh ngắt một màu thế kia?
Rằng: - Rau Quảng Bá đây mà,
Rau vào xí nghiệp, rau ra chiến trường.
Rau tình, rau nghĩa quê hương
Lại đây, đẩy một đoạn đường hộ rau.


412. Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành Thủ đô.
Ra tay chẳng phải tay vừa
Làm chiêm chiêm vượt, làm mùa mùa hơn.
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
Thao trường cũng gắng cũng chăm
Veo veo đường đạn thằng băng vòng mười.
Việc quân nào chịu thua người
Cũng tay súng thép giữ trời quê hương.
Điện về điện sáng làng thôn
Cũng tay điều khiển máy bơm máy nghiền.
Siêng làm thì học cũng siêng
Người vào lớp bảy, người lên lớp mười.
Mấy kỳ đấu kiếm, thi bơi
Chưa tài mà cũng khối người vỗ tay.
Đêm chèo giọng hát chưa hay
Vẳng qua sông Đuống đã say sông Hồng.

Bốn mùa tươi áo nâu sồng
Việc nhà việc nước gánh gồng đôi vai.
Trai tài gái đã kém ai
Chẳng thơm cũng ngát hoa nhài hoa chanh.
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành
Gái mà như thế, khối anh giật mình!

413. Rau Lĩnh Nam nấu suông mà ngọt
Bưng bát cơm đơm một muốn hai
Trưa nay vừa bức vừa oi
Hái nhanh cho kịp gửi nơi trận tiền
Cà muối xổi, rau dền, cải trắng
Tuy đơn sơ nhưng thắm tình dân
Sớm chiều em tưới em chăm
Cho rau mượt lá, anh ăn mát lòng
Anh giữ súng phòng không vững chắc
Em trồng rau xanh ngắt trên đồng
Rau tiếp luống, đạn lên nòng
Giặc nào thoát khỏi trong vòng tay ta.

414. Nhắm ai hoa thắm lòng tay
Ngát hương Hữu Tiệp mà say Ngọc Hà.
Hoa thơm dải áo sẻ tà
Thơm thơm lá phiếu của ta của mình.

Nhắn ai ươm ngọn dâu xanh
Tơ vàng Tầm Xá uốn quanh sông Hồng.
Ví dù con bế con bồng
Phiếu tươi nét chữ đẹp lòng cả đôi.

Nhắn ai chèo lái ngược xuôi
Thuyền qua Thái Thủy dừng nơi bến Chèm.
Cắm sào quen lại thêm quen
Hẹn năm ba hẹn: chờ quên phiếu bầu.

Nhắn ai se chỉ bấy lâu
Tây Hồ vấn vít trăm mầu tơ vương.
Có đi chung lối chung đường
Chờ chung lá phiếu mà vương chỉ hồng.

Nhắn ai quê ở bên sông
Phú Viên cau thắm trầu không mấy mùa.
Phiếu bầu buổi sớm hay trưa
Để trầu cau gửi cho vừa lòng ai.

Nhắn lời xin giữ lấy lời
Mừng ngày bầu cử thêm vui xóm làng.
Ước gì nắng đỡ hanh vàng
Để ai nghiêng nón qua làng cùng đi...

415. Ai về Giáp Nhị năm xưa
Chê ao thối đặc, chê mưa ngập làng.
Chê nhà mái dột, vách tàn
Chê lúa mọc mậm đầu làng cuối thôn.
Giờ về Giáp Nhị một hôm
Khen rau muống tốt nhiều hơn lá rừng.

Khen ao lắm cá vẫy vùng,
Khen nhà ngói đỏ như vung hàng nồi!
Khen trường mới dựng xinh tươi, Khen loa đã bắc từng nơi từng nhà.
ấm no vui trẻ vui già
Sản xuất càng mạnh còn là đổi thay.

416. Đố ai đếm được lúa vàng
Để ta tính gạch Bát Tràng xây sân
Sân ta mở rộng mấy lần
Mà sao lúa cứ lấn dần, đòi thêm!

417. Tháng tám nắng rám trái bòng
Bồ không hạt thóc, trông mong từng ngày...
Vui sao tháng tám ngày nay:
Thóc chiêm vừa vợi đã đầy Nam Ninh.

Bén mầu luống cải lên xanh
Ngô thơm mùi nắng để dành riêng hai.
Mới ra mẻ gạch lò ngoài
Nhà ai cuối xóm đã tươi mái hồng.
Đầm trong sen hái vừa xong.
Đầy sân hợp tác sen hong nắng vàng.

418. Quê ta đẹp quất Tây Hồ,
Tơ vàng kén mượt đầy bồ Tứ Liên.
Hữu Hưng dệt lụa hoa hiên
Cò bay bướm lượn in trên lụa đào.
Cam Canh, bưởi Mỗ ngọt ngào,
Mát lòng cải bắp, su hào Trung Kiên.
Mình về Nguyên Xá mà xem
Vườn hồng trĩu quả, chuối nêm kín làng.
Mễ Trì thơm gạo tám xoan.
Dự hương, gié cánh thóc vàng như tơ.
Gửi người dệt bộ bài thơ
Phùng Khoang gấm đẹp còn chờ tay ta.

Cốn Vòng nức tiếng gần xa,
Cau non Dịch Vọng, tiếng gà thôn Viên.
Đường vào Cổ Nhuế vẫn quen
Máy khâu rộn rã, mía chen vai người.
Hai Xuân như đẻ sinh đôi
Cánh diều chung sáo, mương khơi chung đào
Trên mình xanh thắm bí đao
Dưới ta lúa tốt khác nào rừng xanh
Vải thiều đỏ rực đầu cành
Thơm mùi cam Cáo, ngọt canh đậu Giàn.
Xuân La lợn béo bao đàn,
Trắng phau cá lội, dịu vàng khoai tây
Mình về ta nắm lấy tay
Ta dặn câu này mình chớ có quên:
Khỏa chèo mình ngược bến Chèm
Viếng Lý Ông Trọng, hoa chen mái đình
Giò Chèm ai gói xinh xinh
Nắm nem làng Vẽ đậm tình quê hương.
Chuối Sù mập quả trăm vườn
Sang thu hương chuối quện hương cốm Vòng.
Hoa đào dệt lối Nhật Tân
Yêu quê hoa nở đầy sân lụa đào.
ở đâu hợp tác công cao
Rẽ vào Quảng Bá xem nào đâu hơn.

Rau xanh kín bãi kín vườn
Hương sen thoang thoảng cho thơm tóc mình
Tung tăng đàn cá lượn quanh
Ta giăng lưới bạc rung rinh mặt hồ.
Quên sao giấy điệp Nghĩa Đô
Tiếng chày nện sợi, câu hò nhặt khoan
Ai xeo cho giấy mịn màng
Đẹp màu tranh mới xuân sang quê nhà.
An Phú dẻo kẹo mạch nha
Lợn hồng da mượt như là trong tranh.
ở đâu thơm húng thơm hành
Có về làng Láng cho anh theo cùng
Theo ai vai gánh vai gồng
Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô.
Trời cao lồng lộng sao cờ
Phi lao vi vút đôi bờ Nhuệ Giang
Trập trùng nhà máy công trường
Đỏ tươi mái ngói, mây vờn khói bay.
Lòng ta như tỉnh như say
Mình nghe! Kìa tiếng máy cày xa xa...
Quê ta đẹp lắm quê ta
Trăm mầu nghìn sắc quê nhà: Từ Liêm.

419. Hà Nội là trái tim ta
Trái tim đất nước, gần xa giữ gìn.
Mày mà đụng đến trái tim,
Sóng căm thù sẽ nhận chìm mày ngay.
Đã chôn hăm mốt máy bay
Vẫn còn sẵn hố đợi mày ở đây

420. Hai ngày rụng sáu máy bay
Chết cha thằng Mỹ hai ngày lỗ to!
Như gà phải gió
Như chó bị mưa
Mặt mày ngơ ngác như cua gãy càng.
Cua gãy càng lang thang bụi cỏ,
Tổng Giôn ngồi như chó cụt đuôi.
Leo vào Hà Nội mà chơi
Gãy càng còn lắm, cụt đuôi còn nhiều!

421. Giặc Mỹ mò vào Thủ đô
Như cá vào trúm như cua vào lờ
Cá vào trúm nằm trơ thân cá
Cua vào lờ đừng có hòng ra
Trận thì rơi bốn
Trận thì rụng ba
Năm mươi tư chiếc đã ra đất bùn.

422. Vỉ ruồi lốm đốm là “con ma” ép bốn
Tiếng rít như lợn là thằng “thần sấm” ep trăm linh năm
ép gì thì ép
Thần gì thì thần
Năm mươi tư chiếc
Tao ep dưới chân
Tao còn đang đợi ép thần một trăm!

423. Hoan hô sông Đuống sông Hồng
Khép vành đai lửa phòng không diệt thù.
Cháu con Thánh Gióng rất cừ
Quật rơi bốn quạ đứ đừ chết ngay.
Tóm cổ giặc lái máy bay
Giỏi đi rong phố, biết tay anh hùng.

424. Trên trời trăng sáng như gương
Dưới trời đèn thắp đỏ đường số Năm
Vui như tháng tám hội rằm.
Rào rào tiếng cuốc tiếng đầm hòa vang.
Ta đào hầm hố sẵn sàng
Như ngày kháng chiến cả làng đánh Tây.
Giặc Mỹ mà lẻn vào đây.
Người chôn xác lũ chúng mày là ta!
Rộn ràng tiếng cuốc gần xa,
Hố sâu theo nhịp lời ca câu hò.
Giặc Mỹ mày còn thua to.
Thua từ nhát cuốc, câu hò thua đi.

425. Bom nào dọa nổi Gia Lâm
Lửa cao cháy bỏng hờn căm trong lòng.
Chiến công thôi thúc ruộng đồng
Đường bừa chống Mỹ trâu vòng thêm nhanh.
Mau lên tay cấy lúa xanh,
Thép mai thủy lợi, biến thành nhát gươm.
Tay cày tay súng căm hờn
Đánh cho giặc Mỹ rụi xương đất này.

426. Nghe đồn mình giỏi làm bèo,
Tiền Phong, Thuận Tốn mình theo kịp rồi.
Quê ta đang kén một người,
Nuôi bèo mùa nực muốn mời mình sang.
Mình - thanh niên ba sẵn sàng,
Chẳng lo xa xóm lạ làng mà chê.
Mình sang ta đẵn thêm tre,
Đóng xe Bốn Bắc khi về tặng theo.
Phải đâu vì quê mình nghèo,
Đôi vai giải phóng chưa theo kịp người.
Xe này chả đáng mấy mươi,
Mình muốn học đóng, ta thời chỉ cho.
Có bèo, lúa tốt bông to,
Có xe thêm sức vui mùa lập công.
Quê ta chống Mỹ, chung lòng,
Đánh giặc trên đồng, kinh nghiệm giúp nhau.

427. Thạch Bàn năm ngoái tốt đay
Đay trồng chống Mỹ năm nay tốt nhiều.
Năm ngoái mậu dịch trói heo
Sợi mành đay đứt nó kêu váng đồng.
Năm nay trói giặc phi công
Quấn mấy mươi vòng chẳng phải nối thêm!

428. đay Cầu Bây tưởng cây tre mọc,
Ngô To Khê vượt nóc đình làng.
Cá Sủi sánh với quạt nan,
Cà Hàn quả tựa bát đàn, kém chi!
Rau Gióng mơn mởn xanh rì
Khiến xe mậu dịch đi về ngày đêm.
Lợn thôn Hội đánh tiếng ghen
Kêu lên, các huyện bốn bên giật mình!

429. Cầu Long Biên qua trái về phải
Bãi sông Hồng thoai thoải ngàn dâu.
Qua sông nhớ mấy nhịp cầu
Được tằm nhờ mấy lứa dâu sông Hồng.
Nhớ công mẹ bón em trông
Tằm lai tốt giống, dâu trồng tốt phân.
Trăng ngà rải lụa sóng Ngân
Tơ vàng mượt bóng lụa vân sông Hồng.

430. Guồng ươm vang khắp gần xa
Vang lên Ngọc Thụy vang qua Bồ Đề.
ầm ầm pháo chuyển trên đê
Sông Hồng chảy réo vẫn nghe tiếng guồng.
Khách đi ngơ ngẩn trên đường
Hỏi đây nhà máy hay trường luyện kim?
- Thạch Cầu chính thực thôn em
Nghề tằm, tay ngọc vốn quen se vàng.

431. Bèo lan khắp cánh đồng Cầu,
Như ai ném cốm đậm mầu xanh xanh.
Gió đưa bèo cuốn vòng quanh,
Bèo ôm chân lúa, lúa xanh che bèo.
Nhờ hôm rét rúm vẳng mèo,
Chân lội xuống nước, rét trèo tận tai.
Tổ bèo không vắng một ai
Ngại chi sương ướt áo ngoài, vẫn tươi.
Những chiều hanh nứt làn môi,
Hết san lại vỗ gấp đôi mọi ngày.
Tin về bắn rụng máy bay,
Bèo ôm kín ruộng, nở đầy đồng ta.
Đồng Cầu ai có thăm qua,
Túi rong mang nặng lời ca tổ bèo.

432. Người đi những ngắm cùng trông
Chị Học đi học, học không ngại ngùng
Vào Thanh học đắp bờ vùng,
Xuống Phòng xin giống chiêm Phòng về gây.
Sang Đào học cấy chăng dây,
Lên Xuân Đỉnh học vung tay ươm bèo.
Chị đi làng xóm trông theo
Chị về Thuận Tốn lúa reo rộn ràng.
Tiếng đồn chị Học đảm đang
Đi một ngày đàng học mấy sàng khôn.

433. Tằm ơi tằm cứ ngủ say
Tan nhà, lấy lá thưng dầy ta che.
Ta làm nhà mới tằm nghe
Buồng tằm có cả mành tre, láng sàn.
Thiếu dâu ta xuống Quảng An,
Ta về Tứ Tổng, ta sang Bắc Cầu.
Ngủ rồi tằm dậy ăn dâu
Vương đầy bụng kén, khắc sâu căm thù.

434. Bạc màu là đất Đông Anh
Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng.
Tưng bừng trống giục, cờ giong
Con mương chống Mỹ, bờ vùng “đảm đang”.
Ai về Dục Tú tham quan
Khen đây thủy lợi gần ngang Phương-Trù.
Ai về thăm Cổ Loa xưa
Thi đua nuôi lợn giỏi như thôn Nhồi.
Nghìn năm mơ ước đây rồi
Thay chân giã gạo, thay trời làm mưa.
Điện về, máy chạy sớm trưa.
Mẹ già sáng mắt, con thơ sáng lòng,
Kim Chung, Uy Nỗ, Nam Hồng...
Đôi vai nhẹ gánh, thêm công cày bừa.
Nhớ sao nhớ mãi năm xưa
Bác về thăm huyện đến giờ chưa quên
Chưa quên lời hứa - niềm tin
Đã ghi vào dạ, đã in vào lòng
Sao cho đồi bãi, ruộng đồng
Thành vựa thóc lúa, thành rừng cây xanh.
Bạc màu là đất Đông Anh
Làm theo lời Bác, đất thành tốt tươi.

435. Đường hào luồn giữa xóm Đình,
Xuyên qua xóm Nội uốn quanh xóm Hà.
Súng trường đón hướng cây đa,
Đại liên ngóc cổ vươn ra phía cầu
Đường hào, ụ súng nối nhau
Giữ đồng lúa thắm, giữ bầu trời xanh.
Đất này là đất Đông Anh
“Thần sấm” mà đến sẽ thành... thần thiêu!

436. Thấy em là gái Thụy Lôi
Chăn nuôi dù khó gấp mười vẫn chăn
Mới đầu lợn thiếu thức ăn
Như trâu đòi cỏ, như tằm đói dâu
Quê em giờ đã dẫn đầu
Lợn nuôi trên đất bạc màu vẫn to.
Anh về năm liệu bảy lo
Thời này nuôi lợn không to cũng hèn!

437. Sương reo lắc rắc cành tre,
Mặt hồ lấp lánh sao khuya đỉnh trời.
Đoàn trâu đủ mặt đây rồi,
Tỏa trăm mặt ruộng sục sôi bùn lầy.
Trâu ơi! Ta bảo trâu này,
Quê ta giặc bắn ban ngày ban đêm.
Căm thù giặc Mỹ chất thêm
Cùng trâu tranh thủ làm đêm làm ngày.

Trâu ờ trâu ơi.
Thuở xưa Thành ốc ta xây.
Nỏ thần ta bắn tan thây quân thù.
Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ,
Cổ Loa rầm rập tiếng hò xuất quân.

Trâu ờ trâu ơi.
Cày đêm, trâu chớ ngại ngần,
Đất này dâng thóc theo chân anh hùng.
Vầng dương sáng tỏa phía đông,
Bác Hồ chắc cũng đèn chong đêm dài.
Mùa này thắng Mỹ, thắng trời,
Lại nghe tiếng Bác ấm vui quê nhà.
Bác vừa kêu gọi hôm qua,
Sáng nay ruộng đã thấm ba lượt cày.

438. Xách khoai ra đến làng Sằn,
Nhìn khoai, mấy chị cứ lăn ra cười:
- Khoai đâu to quá bình vôi?!
Thưa rằng: “Khoai của xóm Nhồi mẹ cho.
Năm nay khoai được mùa to
Sào gần bảy tạ ních kho, chật nhà”.
Xách khoai mỏi cánh... ái chà!
Nặng như đạn pháo, khoai ra chiến trường.

439. Anh vươn đôi cánh che dâu
Em canh tằm ngủ cho sâu cho già
Kẻ thù đến phá quê ta
Anh như én bạc, em là pháo binh
Quê em Tằm Xá, Đông Anh
Tơ vương mát lối, cửi canh rộn nhà
Bắn tan “thần sấm”,
Nghiêng cánh anh qua
Bóng anh soi bóng lụa là quê em.

440. Ai về Dục Tú cùng em
Mà ngắm bờ thửa, mà xem bờ vùng.
Đồng em như tấm thảm nhung
Bờ như dải lụa thêu từng cánh hoa,
Mương gần nối với mương xa
Cống chìm cống nổi nước ra nước vào,
Đường đi mát bóng xoan đào
Cánh cò bay liệng vẫy chào trạm bơm.

441. Đường lên Đại Độ
Đường đến Tằng Mi
Đường xa cũng chẳng ngại chi
Đường xa vẫn lắm kẻ đi người về.
Kẻ đi đào đất đắp đê
Người về vớt nứa, chẻ tre, đan thuyền.
Sông sâu đón nước chẩy lên
Thuyền nan chở mạ cấy chiêm xanh đồng.
Ruộng cao mát nước sông Hồng
Mát tay người ở, ấm lòng người đi.

442. Con đê ngăn lũ sóng Hồng,
Khỏi vào tàn phá ruộng đồng quê ta.
Mồ hôi nước mắt ông cha,
Đê này trao lại cho ta giữ gìn.
Súng ta trực suốt ngày đêm,
Bao nhiêu lửa giận gửi viên đạn này.
Thịt ta đây, xương ta đây,
Đem ra giữ vững đê này cũng đem.

443. - Em sinh con gái hay trai?
Con trai làm cậu thủ mai cho làng.
Con gái cho học nghề đan
Đan sảo đan sọt cho đoàn dân công.
Dân công đắp đập khơi sông
Lấy nước về đồng nuôi lúa mùa chiêm...
Vợ tôi tủm tỉm cười duyên:
- Sông ngòi anh nghĩ liên miên suốt ngày!

444. Sớm nay ra đồng gặt chiêm
Ngẩng nhìn cầu sắt Long Biên cao vời
Thấy anh bên súng canh trời
Cho đồng hợp tác tiếng cười nở ran.
Ơi anh bộ đội, Mũ gắn sao vàng,
Ước mong anh xuống tận làng em chơi.
Thổi nồi cơm mới, vung cười,
Hơi thơm nghi ngút xới mời anh ăn.
Ước rồi đêm tới sáng trăng,
Chòi em đứng gác cao bằng súng anh.

445. Nhật Tân có một cây đào
Mảnh bom giặc Mỹ xuyên vào giữa thân.
Cây đau, cây vẫn lớn dần
Hẹn ngày bẻ một cành xuân nở đều
Tặng anh pháo thủ thương yêu
Mừng anh chiến thắng nở nhiều hơn hoa.

446. Phá rau, rau vẫn lên xanh
Còn máy bay Mỹ tan tành khắp nơi.
Phá đào, đào vẫn đâm chồi
Còn thằng Mỹ vái như ngồi tế sao.
Sợ rau sợ cả hoa đào
Hèn chi thằng Mỹ ngày nào cũng thua.

447. Giặc trời gieo bão đổ mưa,
Chưa qua sương giá lại mùa nở sâu.
Em là con gái vùng rau,
Giặc Mỹ không sợ, sợ đâu giặc trời.
Cải Đăm mưa bão chẳng vơi,
Cà Yên sương muối vẫn tươi sắc hồng.
Đạn bom, rau vẫn kín vồng,
Vẫn vững, tấm lòng con gái vùng rau.

448. Ruộng cà trĩu quả đồng Chay
Đi hết một luống ba ngày mỏi chân
Cải xanh Yên Ngựa đồng gần
Mới đi nửa luống mà chân mỏi rời
Rau xanh, cà trắng ngược xuôi
Quân đi cuối đất đầu trời cũng theo.

449. Ai về hợp tác Trung Hòa
Tới thăm bà Hợi xem bà chăn nuôi.
Lợn nằm lợn đứng lợn ngồi
Béo tròn béo mập, trông thời như tranh.
Tới đây thấy rõ rành rành
Chẳng còn là chuyện hữu danh vô hình.
- Hai nhăm con lợn xinh xinh
Mười lăm con lớn rõ rành bốn mươi!
Xem xong khen chẳng hết lời:
- Giỏi thay! Kiện tướng chăn nuôi ngoại thành!
 

450. Trại em có giống khoai môn
Nuôi lợn chống Mỹ béo tròn, mượt lông.
Trại tôi nghe cũng muốn trồng
Qua bốn cánh đồng mua mặt khoai con.
Lúc về trời đổ mưa phùn
Thấy không mang nón, ngắt giùm lá khoai.
Người đi đội nón ướt vai
Nhưng tôi chỉ ướt đến hai bên sườn.

451. Đàn gà Đại Từ
Trông như đàn ngỗng
Gáy một hồi vang động gần xa
Lông trơn lốm đốm như hoa
Chân vàng vàng sẫm như gà trong tranh
Thảo nào các xã ngoại thành
Nuôi gà chống Mỹ, chịu anh Đại Từ.

452. Chép Yên Duyên nằm nghiêng thuyền thúng
Con mè hoa quẫy thủng rổ sề
Tháng bảy cá đi ăn thề
Ngày nay tháng bảy cá về đầy sân
Công nhân, bộ đội, nông dân
Vui cùng cá, bắn tan quân giặc trời.

453. Mênh mông sóng vỗ ngang bờ
Rung rinh nước bạc lập lờ ánh trăng
Khỏa chèo thuyền lướt băng băng
Cá phô lườn bạc rõ bằng mo cau!
Nước trong cá quẫy đục ngầu
Chạm thuyền, cô lái tưởng trâu húc thuyền!

454. Hỡi cô tắm mát ao anh
Cô tắm thì hãy ngồi nhanh lên cầu.
Cô mà có muốn tắm lâu
Mau bước lên cầu cho cá anh bơi.
Cá anh lượn ngược lượn xuôi
Nào mè, nào chép, nào trôi, nào chầy.
Cô đừng có lội xuống đây
E gặp đàn cá ao này rỉa chân!

455. Gánh gì phủ kín lá cây
Tưởng cô mậu dịch về đây bán hàng.
Đương khi đói bụng nhỡ nhàng
Hỏi cô có bánh có hàng bán chăng?
Cô cười trắng muốt hàm răng:
- Hàng em chỉ bán cho thằng Mỹ thôi!
Tối nghe tin lũ giặc trời
Đúng thằng nghìn sáu đã rơi đất này.
Hỏi tên giặc lái máy bay
“Kẹo” cô du kích sáng ngày có ngon?

456. Người rơm phe phẩy tay rơm
Đứng canh đồng lúa sớm hôm tối ngày
Một chiều có chiếc máy bay
Mò vào ăn đạn rơi ngay xuống đồng
Nhảy dù thằng Mỹ thoạt trông
Như gà mổ thóc, “xin ông, lạy bà!”
- Tao canh chim chóc thôi mà,
Muốn xin, ra lạy mấy bà xã viên!

457. Nồi cơm trên bếp đang sôi,
Máy bay đến bắn vỡ nồi nhà ông.
Tức mình ông phóng ra đồng
Ông ghì khẩu súng ông trông lên trời:
Máy bay cái cháy cái rơi,
Cái cong đuôi chạy một hơi hoảng hồn.
Đứng lên vuốt bụng ông buồn
Khao quân giờ biết nấu cơm bằng gì?
Anh em du kích cười khì
Gò luôn “không lực Huê Kỳ” tặng ông!

458. Có cô con gái xóm Đoài
Nghe tiếng súng nổ bên tai dập dồn
Vội vàng bỏ dở bát cơm
Đên snơi tiếp đạn như hôm hiệp đồng.
Có anh du kích thôn Đông
Cũng vừa nghe súng ầm ầm bên tai
Bếp vừa nhóm luộc nồi khoai
Nhanh tay dập lửa, ra nơi hiệp đồng.
Bên này bên ấy Đoài, Đông
Cách nhau cánh đồng không hẹn mà nên.

459. Giữa trưa trời nắng chang chang
Bom gầm đạn rít dọc ngang trên đầu
Nước chè mẹ gánh qua cầu
Mẹ ra trận địa phía sau đồng làng.
Chè tươi của mẹ đem sang
Xanh mầu đồng lúa, rộn ràng lòng con.
Cổ khô được bát nước ngon,
Súng nhằm giặc Mỹ nổ giòn trời mây.

460. Đêm sao sáng lắm sao ơi!
Liệu sao có thức bằng người được không?
Đố sao thức tới rạng đông
Mà xem ta gác ruộng đồng trời mây.
 

461. Tiễn chồng nhập ngũ hôm nào
Em về em cũng xin vào dân quân
Đêm qua vác súng đi tuần
Thấy đường còn ấm bước chân của chồng.

462. Chồng một bên, vợ một bên
Con trâu đi trước ngó nghiêng cặp sừng
Phải trâu thấy chuyện lạ lùng
Đi cày cũng phải vợ chồng có đôi?
Nước non lửa bỏng trâu ơi!
Căm thù giặc Mỹ ai người ngồi yên.

463. Đàn ông xông xáo trận tiền
Đàn bà mọi việc đứng lên thay chồng
Nuôi con, sản xuất, cấy trồng
Việc nhà, việc xã, việc đồng đều hay
Học cày cho thạo đường cày
Để chồng nhập ngũ rảnh tay diệt thù.

464. Trồng trọt mà thiếu chăn nuôi
Như trầu nhạt thuốc thiếu vôi, hỡi chàng
Lúa kém phân, hạt vàng chẳng mẩy
Lợn chưa nhiều, thịt lấy đâu tăng?
Mình qua Đông Mỹ mà thăm
Dục Nội mình tới, Khuyến Lương mình về
Học thêm kinh nghiệm tay nghề
Lợn bột chăn giỏi, nái về nuôi hay
Dẫn tình lai giống quen tay
Chuồng trại phen này mở rộng thênh thang
Chăn nuôi nghề chính vững vàng
Như lá trầu vàng đủ thuốc đủ vôi.

465. Thủy lợi đi trước mở đàng
Trên đường cây mọc nối hàng xum xuê
Thuyền nan theo nước đi về
Dưới dòng cá lượn thỏa thuê vẫy vùng
Thủy lợi là gốc nghề nông
Chưa xong thủy lợi thì lòng chưa yên.

466. Từ ngày có điện về làng
Máy xay rộn rã, nhịp nhàng máy bơm.
Sao sa lấp lánh xóm thôn
Mỗi nhà một vị sao hôm sáng ngời.

467. Đã mừng làng có máy xay
Bỏ đi cối giãtừ nay rộng nhà.
Máy về, ngô thóc dôi ra
Cót cao nong rộng cảnh nhà chật thêm.

468. Lúa xếp ngang cột điện làng
Máy đập rộn ràng chạy suốt ngày đêm
Đội anh đổi kíp đội em
Chạy từ trăng khuyết qua đêm trăng tròn.
Ngoài đồng đãbiếc mạ non
Mà nghe tiếng máy vẫn giòn sân phơi.

469. Lên huyện học lớp máy bơm,
Cầm tay mẹ dặn: “Sớm hôm mau về”.
Hôm nay con đãthạo nghề
Ra đồng nổ máy, tiếng nghe vang giòn
Nước tràn mương lớn mương con
Lúa, rau vẫy lá xanh rờn màu tươi.
Tối nằm, chốc mẹ lại cười:
- Gớm sao quý hóa cái mùi dầu xăng.

470. Vào chuồng đánh trâu ra đồng
Mũi trâu còn đó mà thừng chạy đâu?
Kẻng làm giục giãtừ lâu
Để ông cuống quít sờ đầu gãi tai
Tìm trong rồi lại tìm ngoài
Hóa ra trâu đói trâu nhai... mất thừng!

471. Con trâu là con trâu riêng
Hơi sốt một tý đã kiêng chẳng dùng.
Con trâu là con trâu chung
Té re té tỏng vẫn dùng chẳng kiêng!
ới anh ơi! Cho anh mượn chục đồng tiền
Ra chợ sắm võng mà khiêng trâu về...!

472. Vắt vào rồi lại vắt ra
thúc như thúc tà, roi tựa mưa mau.
Máy còn lúc nghỉ, tra dầu,
Huống hồ da thịt thân trâu thế này.
Anh còn lợi điểm dăm ngày,
Không khéo hợp tác “lợi” ngay... bộ sừng!

473. Trâu này xấu bụng ỉa re
ỉa “phân lộn đất” kẻ chê người cười
Tin về trâu chẳng còn vui
Thâu đêm trâu đứng nhìn trời thở than
Bỗng nghe tiếng động trong chuồng
Thấy ông bà chủ đang tuôn đất vào!
“Ôi thôi! Tôi lạy ông nào
Lạy ông trăm lạy nỡ sao thế này?”
Xãviên đồn khắp đó đây
Thương trâu tốt bụng mấy ngày chịu oan!

474. Người thì bí tỉ thịt thà,
Bò thì khát nước cùng là đói rơm.
Ba hôm! Vâng, chỉ ba hôm!
Rơm bò không nuốt, thì rơm “nuốt” bò!

475. Phải vì nắng rám má hồng
Nên em ra mạ ngại ngần đôi tay
Cấy gì mà cấy đến hay
Lợn gì mà cấy đến hay
Lợn chui cũng lọt, ngỗng bay cũng vừa!
Phải vì ai hẹn ai chờ
Để em nóng ruột cấy thưa kịp về
Hay vì sương muối mờ che
Ban ngày cứ ngỡ đêm khuya cấy mò.
Vì em mà thóc vơi bồ
Ba lần tổng kết mất cờ cả ba!

476. Hai lần cày lỏi cày nông
Hai lần họp xã, hai lần bị phê
Những ngồi mà thẹn mà ê
Xãviên phê chín, vợ phê những mười.
Họp về ngẫm nghĩ từng lời:
- Vợ mình - thật rõ con người thẳng ngay.
Đêm nằm gối nhẹ đầu tay:
- Chịu “bà” chủ nhiệm hôm nay phê chồng!
Trở vai, bẹo cái má hồng,
Vợ cứ cười thầm: - “Đùa mãi! Ngủ đi!”.

477. Trên giường con khóc hết hơi,
Dưới bếp vợ mắc nấu nồi cơm, canh
Nhìn sang bàn nhỏ bên mành:
Ung dung bên ấm chè xanh, chồng ngồi!
Nhà bên cũng bấy nhiêu người
Mà chồng dỗ trẻ, vợ ngồi nấu ăn
Con đùa lại mẹ níu khăn,
Chồng cười: “Thôi dậy, để anh thay nào!”

478. Người ta hội họp đúng giờ
Như xe đủ khách, như lò đủ than
Người sao dở dở dang dang
Họp rồi mới đến, chưa tan đãvề!
Trách gì bè bạn không chê:
Khoai hà nửa củ, cơm khê nửa nồi.

479. Nhìn lên: máy bạc trời xanh,
Nhìn xuống dòng nước: thấy anh lõa lồ!
Ai cho tôi mượn cái bồ
Tôi úp anh lại bây giờ được không?
Kẻo đây cảnh đẹp người đông
Trông anh chán lắm thà trông cái bồ!
Anh ơi! Tôi gắng công chờ
Anh mặc xong quần lót, tôi mới mở cái bồ cho anh ra!

480. Hôm qua tôi đến chơi nhà
Thấy ông bươu trán, thấy bà mắt sưng.
Ông thì mặt đỏ bừng bừng
Tay lao cán thuổng, tay vung cán cào.
Bà thì mồm thét, miệng gào
Chân rãy đành đạch, tay cào áo ông.
ối chao! Rõ “đẹp” hay không?
Hỏi rằng tình nghĩa vợ chồng còn đâu?

481. Mẹ nằm mẹ dỗ tỉ tê:
- Năm gian nhà ngói đề huề đến vui!
Lắc đầu, con chép đôi môi:
- Một gian nhà nhỏ ngọt bùi vẫn hơn.
Mẹ nằm mẹ dỗ nỉ non:
- Gái hơn hai tuổi, đúng tròn câu ca!
Con nằm, con ngoảnh mặt ra:
- Như đôi đũa lệch, như là đàn em.
Mẹ nằm mẹ lại dỗ thêm:
- Bên ông bà ấy, đất nền thương dâu.
Con cười: - Con chẳng mắc câu
Lấy chồng nào phải lấy đâu nhà chồng!
Mẹ ơi, trả cốm trả hồng
Duyên con, con chọn, đẹp lòng con hơn.

482. Buổi nào vuốt mái tóc này
Những là: “Như dải lụa bay quanh người”
Bây giờ anh túm anh lôi
Lụa ơi là lụa tả tơi quanh đường!

Buổi nào nựng má anh thơm
Những là: “Ngọt lịm như hương bưởi đào”
Bây giờ anh tát anh cào
Còn đâu hương bưởi, ngọt ngào miệng thơm?

Buổi nào chín mến mười thương
Ngọn đèn ai tắt, đêm trường ai lay
Bây giờ dùi đục, cẳng tay
Mười thương thì chín đãbay đâu rồi?
Buổi nào đôi mắt sóng đôi
Như soi lòng nước giếng khơi giữa làng
Bây giờ mắt tím mắt vàng
Cho lòng giếng cạn, nước tràn lên mi!

Dở trang luật mới đãghi
Tình chồng nghĩa vợ là gì... hỡi anh?

483. Cầm bút viết thẳng dòng chì kẻ,
Như cấy đều từng giẻ mạ non.
Mạ kia thành thóc thành cơm,
Chữ này nên sáng nên khôn cho đời.
Đầu bàn gỗ - chồng ngồi làm toán,
Cuối bàn tre - vợ dạm bài thơ.
Nhìn nhau nhớ chuyện ngày xưa,
Ngón tay điểm chỉ đen tờ hôn thư.

484. Em mua cuốn sách về nhà,
Anh kêu lãng phí, để mà mua rau.
Đến đêm, dưới ngọn đèn dầu,
Em mang em đọc, anh chầu anh nghe.
Canh một anh chẳng nói chi,
Canh hai giật sách, cười khì: “Đưa đây!
Sao mà họ tả đến hay,
Y như tháng trước u mày giận tao!”
Hôm sau anh nói ngọt ngào,
Nhắn cô bán sách rẽ vào anh mua.

485. Nghe đồn phụ nữ Trung Văn
Bảo nhau “kế hoạch” về thăm xem nào.
ít con, sức mẹ dồi dào
Bốn mươi mà vẫn má đào hây hây.
Nhanh tay cấy, thạo tay cày
Việc nhà việc hội hăng say với người.
Nuôi con, con khỏe con chơi
Dạy con ngoan ngoãn, ai người cũng khen
Mình qua trạm xá mình xem
Cứ dầy thêm sổ chị em đặt vòng.
Ai đùa hát ghẹo gió đông:
- Em ơi đãhỏi ý chồng hay chưa?
- Chị hỏi thì em xin thưa:
Chồng em cứ giục “sao chưa đặt vòng”.
Bởi sung với vả như lòng
Lo ăn, lo mặc nên cùng giống nhau.
Muốn cho nước mạnh, dân giàu
Mình về, em nhắn đôi câu với mình:
Riêng chung trọn nghĩa, đẹp tình
Chỉ nên “kế hoạch” gia đình hai con...
Chia tay trong tiếng cười giòn,
Đường quê sáng bóng trăng non tiễn người.

486. Cả nhà trẩy hội bán hàng
Đôi gà trống thiến bà mang lệch sườn.
Cháu giành đeo bị đậu tương,
Ông bưng rổ trứng còng lưng lò dò.
Sau cùng là chú lợn to
Mẹ nhờ hàng xóm khiêng cho một đầu.
Tiền này chả lấy về đâu
Mua sách con học, mua dầu thắp đêm.
Hai trăm tiết kiệm gửi thêm
Ghi sổ chống Mỹ, có tên cả nhà.

487. ý xuân còn đượm hoa đào
Hồ Gươm biếc sóng dạt dào tin vui
Gió về đường 9 gió ơi
Hoa đưa hương gửi lời người lập công
Chỉ thêu ai nhuộm nên hồng
Cho khăn em đẹp tấm lòng hậu phương
Lá thư băm sáu phố phường
Mang lời hẹn với chiến trường thi đua
Làng Sen đỏ rực bóng cờ
Nâng cao năng suất từng giờ em theo
Máy bay thù rụng chân đèo
Vải thành suối bạc, thoi reo chào mừng
Bản Đông xe giặc cháy bùng
Ra lo thép sáng tưng bừng xưởng em
Khe Sanh chiến thắng vang rền
Lúa chen kín ruộng, rau lên chật đồng
Sóng Sê-pôn gọi sông Hồng
Công trường vào hội bên nòng pháo xanh
Vững vàng tay súng thay anh
Giặc vào, xác giặc tan tành ở đây
Niềm vui náo nức từng ngày
Chiến trường mình đánh thêm hai hỡi mình!
Nhờ mây chở nụ cười xinh
Tặng anh giải phóng chút tình Thủ đô.

488. Người hay nên đất hay tên
Hoa thơm cho bướm làm quen lượn vòng
Đãnghe Phù Đổng, Nam Hồng
Đường Lâm, Song Phương, Đại Đồng lại quen
Cũng là Yên Sở cùng tên
Mình bên sông Đáy, ta bên sông Hồng
Chung con đường lớn, chung lòng
Rau tươi, lúa tốt xanh vòng đai xanh
Qua mười một huyện ngoại thành
Niềm vui sao cứ long lanh mắt mình
Người nào cũng giống trúc xinh
Đất nào đất cũng nặng tình quê hương
Nghe sôi khúc hát lên đường
Quân đi chảy hội biên cương diệt thù
Đống Đa, Đầm Mực còn mồ
Sang đây gửi xác côn đồ lại đây
Pháo đài Hà Nội hôm nay
Vẫn mang khí thế rồng bay sẵn sàng!

489. Uốn cong một khúc Hồng Hà
Rẽ vào dòng thác sông Đà ở đây
Sóng xô ghềnh Bợ chưa say
Trung Hà đãgặp phà dầy sang sông
Phải đường Vật Lại đây không
Thăm đồi cây, Bác đãtrồng năm xưa
Ba Vì đang trắng cơn mưa
Có về núi Chẹ thuyền đưa mình về.
Hôm qua xanh sắc đồng quê
Nay thêm rừng biếc tôi về Thủ đô
Đãquen lướt sóng Tây Hồ
Đồng Mô, Đại Lải bây giờ buồm dong
Đãquen sông Đuống, sông Hồng
Lại vui Hà Nội tựa tưng sông Đà
Sông Cầu quan họ thiết tha
Cà Lồ - sông cả - mượt mà vắt ngang
Sông Tô, sông Nhuệ mơ màng
Mình qua sông Tích hay sang đập Phùng
Chào con sông Đáy thủy chung
Mấy lần thoát lũ đãtừng có nhau
Hôm qua nào có núi cao
Ba Vì non Tản nay vào Thủ đô
Mình lên núi Sóc ta chờ
Vó câu ông Gióng bây giờ còn bay...


490. Quê em đồng bãi Giang Biên
Có giống ngô tốt, anh khen hết lời.
Giờ ngô đất mới, em ơi
Bắp dài, hạt mẩy gấp đôi quê nhà
Vụ một thu hoạch vừa qua
Thiếu kho chứa bắp, thiếu nhà hong ngô
Ngô chen đầy bịch, đầy bồ
Ngô leo lên mái, ngô bỏ quanh hiên
Ai về nhắn với Giang Biên
Nam Ban nay đãnên miền ngô lai
Trồng ngô chẳng chịu thua ai
Thách người đồng bãi đua tài với anh.

491. Ngày xưa không đất cắm dùi
Tha phương cầu thực bằng đôi chân gầy
Bây giờ lên ngự máy bay
Cưỡi mây vài tiếng tới ngay lâm đồng
Đất hồng như bãi sông Hồng
Chả bao giờ đất phụ công của người
Đảng cho đôi cánh của đời
Ta bay đủ tám phương trời cũng bay.

492. Đồng em lạc béo, khoai thơm,
Cấy trồng lúa cũng vượt hơn mọi mùa.
Qua rồi những cảnh năm xưa
Nắng lên đãcạn, chớm mưa đãđầy.
Bây giờ ruộng đó người đây
Tay súng thêm mạnh, tay cày thêm chăm.
Phương Trù ai đãghé thăm,
Nay về Dục Tú chắc rằng cũng mê!

493. Canh muống nấu với tương gừng
Ai ơi ngon bữa xin đừng quên nhau.
Nắng mưa ruộng cạn đầm sâu
Một năm tám lứa trồng rau cho mình.

494. Tay cầm mấy mớ rau non
Nhớ công hợp tác chăm nom mấy lần
Dù em chả lấy chồng gần
Mẹ cha vẫn sẵn canh cần xãcho.

495. Ngày nào hai đứa bảo nhau
Trồng mươi cây mướp phía sau sân nhà.
Bây giờ mướp đãra hoa
Tay em thụ phấn quả ra trĩu giàn.
Ước gì cấy vãn anh sang
Chung mâm chung bát bữa cơm đầu mùa.
Mướp non em nấu canh cua
Để đền công bạn hôm xưa bắc giàn.

496. Cải nào bằng cải Đông Dư
Lá như lá cọ, bẹ như bẹ dừa
Nhà ai mua vại hay chưa
Để ta hong cải nén dưa hộ người
Vụng tay xin chớ vội cười
Chỉ e ăn một nhớ mười cải quê
Muốn về sơm sớm mà về
Muốn mau qua bến Bồ Đề cho mau
Vui chưa xe trước xe sau
Cải xanh mát cả nhịp cầu Long Biên.

497. Hẹn gì hẹn bẩy hẹn ba
Hết hẹn gốc bưởi hẹn qua gốc đào
Không ra e tiếng làm cao
Ra thì ăn nói làm sao cho vừa
Hẹn gì những cợt những đùa
Để nghi để ngại để ngờ lòng nhau
Lắm sương thì chả xanh trầu
Lỡ lầm một phút khổ đau suốt đời
Hẹn gì hẹn thế, chịu thôi
Gốc đào, gốc bưởi anh ngồi mình anh.

498. Năm canh đánh suốt năm canh
Lúa rau vẫn thắm màu xanh ruộng vườn
Làng hoa vẫn ngát hương thơm
ánh đèn vẫn sáng phố phường gần xa
Nửa đêm người thợ vào ca
Tinh sương vẫn tiếng rao quà thanh thanh.
Năm canh đánh suốt năm canh
Vẫn cô mậu dịch đẩy nhanh xe hàng
Lắng nghe tiếng máy nhịp nhàng
Leng keng tàu điện rộn ràng cửa ô
Hiu hiu rét ngọt trong mưa
Êm êm tiếng chổi nhẹ đưa mặt đường
Năm canh là một đêm trường
Bom rơi là thế, phố phường là đây
Tay ta xuyên chín tầng mây
Quật cho lũ “pháo đài bay” tan tành.

Năm canh đánh suốt năm canh
Quân thù bốc cháy đỏ thành Thăng Long
Mắt em buồn ngủ hay không
Chín đêm quan sát rõi trông bầu trời
Năm canh chỉ một đêm thôi
Mà vàng thử lửa rạng ngời bốn phương.
Khâm Thiên, Uy Nỗ, An Dương
Lòng dân như ngọc kim cương đất này
Giẫm chân lên “pháp đài bay”
Mà xem giặc Mỹ giơ tay, cúi đầu...
Bom rơi rơi suốt canh thâu
Vươn vai rũ bụi nhìn nhau lại cười
Tối nay vào trận thứ mười
Năm canh lại sáng dáng người Thủ đô.

499. Bước chân qua đoạn đường này
Gặp cô thợ điện thử dây bên đường
Hỏi đùa: “Cô gái công trường”.
- “Không, em chính ở quê hương đây mà...”.

500. Máy xay tôi ghé thăm qua
Gặp mấy ông già cũng lại công nhân
Hỏi ông, ông cũng phân trần:
“Xã viên mới học có phần chưa quen”.
 

501. Mưa bay, gió lạnh, mưa bay
Con đường hút giữa đêm dày mênh mông
Con đường hút giữa cánh đồng
Con đường hút giữa phập phồng đèn xe
ễnh ương tìm gọi bạn bè
Ru đôi mi mắt nặng nề trong đêm
Bóng ai lặng lẽ bên thềm
Hạt mưa cứ bắn vào thêm với người...

Xe nào vội vã về xuôi
Vút qua gửi lại nụ cười bình yên
Xe nào ì ạch đang lên
Hàng chi phủ bạt kín trên thế này?
Những dòng số vội ghi ngay
Những câu hỏi thoáng một giây ùa vào.

Ai đi giữa trận mưa rào
Bọc gì nặng chĩu đeo sau lưng người
Đường đang trơn lắm em ơi!
Hon-đa chớ phóng đùa chơi tử thần
Dõi xa rồi lại trông gần
ánh đèn đã rọi mấy lần vòng quanh
Có con tàu ngược băng nhanh
Đung đưa Dốc Lã đêm lành lặng yên...

Tôi vừa qua phố Yên Viên
Về thăm trạm đặt giữa miền đồng quê
Ô-tô ngàn chiếc đi về
Mỗi ngày trăm việc bộn bề diễn ra
Phải nào kiểm soát xe qua
Tuần lưu đi suốt cả ba đoạn đường
Bên này cầu Đuống yêu thương
Đến nơi cuối đất Yên - Thường giáp ranh

Ngã ba lối rẽ chợ Nành
Lại ga đầu mối gian manh cũng nhiều.
Đã bao nắng sớm mưa chiều
Mặt đường đã thuộc, quán lều đã quen
Lái xe toàn tuyến nhớ tên
Dấu chân mười bốn anh em trải dài...

502. Niềm vui sóng vỗ sông Hồng
Soi nghiêng nhịp thép bềnh bồng mây đưa
Cầu phao bến đợi năm xưa
Ngô xanh đất bãi mái bờ xe lên.

Bàn tay ai vẫy dưới thuyền
Đỏ cờ ai múa mừng trên mặt cầu
Đôi bờ náo nức sang nhau
Sáu trăm ngày ấy hai đầu thi công

Đã từng nắng táp mưa dông
Cầu rung gió quật, trụ lồng lũ quây
Đã từng đinh tán tê tay
Búa chồn móng cọc, rầm bay ngang trời

Âm vang tiếng hát xây đời
Lửa hàn thắp sáng mặt người trong đêm
Sớm chiều nghẽn lối Long Biên
Càng thêm thôi thúc, càng thêm gọi chờ.

Diệt thù cướp giáo thành thơ
Bảy trăm năm trước bây giờ Chương Dương
Cầu ta tự lực tự cường
Thủ đô vào hội mở đường thông xe
Bốn phương rộng lối đi về
Phúc Tân nối với Bồ Đề từ nay.

Thăng Long đã đẹp rồng bay
Chương Dương vầng sáng sông này vui thêm.

503. Phất cờ đồng khởi thi đua
Thủ đô nổi trống vào mùa dựng xây.

Đất xưa chôn pháo đài bay
Đẹp tươi ngói đỏ từng ngày lên cao
Bàn tay ai xẻ chiến hào
Bây giờ đào móng cho bao ngôi nhà
Mười năm nổi lửa Hồng Hà
Nước non vang dội khúc ca anh hùng
Bây giờ xây cuộc đời chung
Bài ca lao động anh hùng lại vang.

Có sang Thủ Lệ mời sang
Mà xem vườn thú mở mang bốn bề
Sông Hồng ai đắp chân đê
Đường Trần Quang Khải đi về thênh thang
Quỳnh Lôi thoát cảnh nước dềnh
Ai khơi lòng cống cho mình mình ơi!

Thanh Nhàn bùn đọng bao đời
Xây vườn hoa mới mọi người gom tay
Đống Đa hồ cá là đây
Bàn tay tuổi trẻ bao ngày đào sâu
Có qua Tô Lịch cùng nhau
Dòng sông nạo vét mở đầu xuân nay.

Một lời xin hẹn cùng ai
Công trường góp sức đua tài đôi ta
Chung tay xây dựng quê nhà
Đất anh hùng nở thêm hoa anh hùng. (xem tiếp 7b)
 

 

Trang 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17