Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Khuyến Học, Quê Hương, Đất Nước
Cơn mây gió trời Nam bảng lảng
Bước anh hùng nhiều chặng gian truân
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Bày ra một cuộc duy tân cũng kì
Suốt thân sĩ ba kì Nam Bắc
Bỗng giật mình sực thức cơn mê
Học, thương, xoay đủ mọi nghề
Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau
Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy
Chưa học bò vội chạy đua theo
Khi lên như gió thổi diều
Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
Cách hoạt động người mình còn dại
Sức oai quyền ép lại càng mau
Tội nguyên đổ đám nho lưu
Bắc kì thân sĩ đứng đầu năm tên
Người tỉnh Bắc, Nguyễn Quyền là một
Cơn nhiệt thành lửa đốt buồng gan
Đùng đùng gió cuốn mây tan
Lạng thành giáo chức từ quan cáo về
Mở tân giới, xoay nghề tân học
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân
Tân thư, tân báo, tân văn
Chân đi miệng nói xa gần thiếu đâu
Trường nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu phố Hà thành
Gái trai nô nức học hành
Giáo sư mấy lớp, học sanh mấy ngàn
Kỳ diễn thuyết người xem như hội
Buổi bình văn khách tới như mưa
Nôm quốc ngữ, chữ Hán thư
Bài ca yêu nước, câu thơ hiệp đoàn
Trong chín tháng, sóng tràn gió dập
Tiếng Đông kinh lừng khắp Đông Dương
Khắp đâu đâu cũng học trường
Cùng nhau đua bước lên đường văn minh
Họ càng thấy người mình càng ghét
Càng bảo nhau đè nẹt càng già
Thương ôi ấu trĩ sơn hà
Nước chưa lặng sóng, giò đà rung cây
Trong sóng gió nhưng tay vẫn vững
Bế học rồi lại đứng khai thương
Rủ nhau một hội Hồng Bàng
Hồng Tân Hưng mở ngôi hàng buôn chung
Đồ Nam hóa bá công kỹ xảo
Khách Bắc Hà thập hiệu vãng lai
Sửa sang trong cái khuôn trời
Mở mang trí não cho người nước ta
Trời đương buổi nắng mưa tầm tã
Dấn thân mình đứng giữa cơn giông
Cả gan cho biết anh hùng
Hỏi xem mấy mặt trong vòng trần ai
(Vè Đông Kinh)
Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy
Nước Nam mình phút dậy can qua
Thái Nguyên nay có một tòa
Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người
Cũng chí toan chọc trời khuấy nước
Ông Đội ra đi trước cầm binh
Rủ nhau lập tiểu triều đình
Những là cai đội khố xanh bằng lòng
Duy phó quản bất tòng quân lệnh
Hóa cho nên hủy mệnh xót xa
Sai người mở cửa nhà pha
Đem tù ra điểm được là bao nhiêu?
Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh
Chớ thị thường uổng mệnh như chơi
Rồi ra làm lễ tế trời
Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang
Phong tám tướng quyền đương quân chính
Tù ba trăm với lính ba trăm
Đều cùng phát súng cho cầm
Vai thì vác súng, lưng khuân đủ đồ
Đường tỉnh Thái kì khu chật vật
Các đường dây thép chặt ngay
Bấy giờ chủ tướng ra tay
Chọn đường mai phục, định ngày giao công
Kí dây thép lòng không theo phụ
Nối dây vào đường cũ đánh đi
Đánh về Hà Nội một khi
Trình rằng có giặc ở thì Thái Nguyên
Tòa thống sứ, toàn quyền hội nghị
Lại có lời phủ dụ ra cho
Bây giờ nhà nước sẽ lo
Sang nhà ông sáu nhỏ to sự tình
Tỉnh Thái Nguyên loạn binh quấy rối
Một đám tù, cai đội khố xanh
Vậy nên ông Sáu biết tình
Giấy tư sang tỉnh Bắc Ninh tức thì
Truyền ngũ tỉnh nơi nào cũng vậy
Lính Đáp Cầu phải dậy tiên phong
Lính Tây, khố đỏ hội đồng
Mang quân lên đóng đồn ông Chủ điền
Ngày mười sáu tiến lên giáp trận
Lính Tây đà tử trận trăm ba
Bấy giờ khố đỏ tiếp qua
Súng trường, trái phá, bắn hòa liên thanh
Xông lên thành khố xanh bỏ chạy
Kéo quân vào đóng tại đình trung
Ngoài thời trái phá đùng đùng
Khi vào đến tỉnh sạch không còn gì
Quân ông Đội liền đi lên núi
Đào hầm sâu làm chỗ lánh thân
Nửa đêm quân kéo đi dần
Qua vùng Tam Đảo về gần Vĩnh An
Mang quân thẳng hướng chợ Vàng
Đến làng Hoàng Xá rẽ ngang quân vào
Xã đoàn không biết nghĩ sao
Sai tuần ra hỏi quân nào đóng đây?
Tân quân mới nói khi nay
Các quan đi khôi phục ngày rày nước Nam
Truyền cho dân cứ ăn làm
Các quan đi mở nước không can cớ gì
Xã đoàn lòng vẫn hồ nghi
Tay cầm cái quắm đứng thì giờ lâu
Ông Đội truyền ra chặt đầu
Nếu không biết phép pheng đầu một khi!
Ông Đội sai quân tức thì
Mổ bò giết lợn kịp kì cơm ăn
Truyền đòi các cụ trong dân
Cho báo có giặc tân quân đóng làng
Việt Trì Tây mới kéo sang
Súng ống xe ngựa chật đường kéo đi
Đến ga Hướng Lại gặp thì
Quân Tây đến đó định kỳ nghỉ ngơi
Xe cộ tiếp vận tới nơi
Quân Tây đi trẩy ngất trời ghê thay!
Bài binh lập trận bủa vây
Thổi kèn, súng bắn đạn bay vào làng
Đi đùng như thể ngô rang
Bắn như cuội rải cản đường quân đi
Trời cao còn có thánh tri
Gió mưa kéo đến Tây thì thôi ngay
Đến hai mươi, tin này đã báo
Ông Đội kéo về đóng đạo Giang Tiên
Đêm nghe súng nổ vang rền
Lính thua, lính phải băng miền Tuyên Quang
Xuyên qua đèo Khế, đèo Giàng
Lính thua, lính lại kéo sang Hoàng Đàm
Bên Tây có ông ba xồm
Cho mày đi trước, mày nom beng đầu
Ông ba bắn chẳng trúng đầu
Ông Đội bắn một phát vỡ đầu quan ba
Ngày nổi dậy can qua xối động
Muốn hoàn công trời chẳng cho làm
Sau quân ông Đội phải tan
Quân thua, quân phải kéo sang bên Tàu
Sau chờ nấn ná ít lâu
Nuôi quân dưỡng tướng mưu cầu chuyện sau…
((Vè Đội Cấn)
Bớ chị em ơi! Đi chợ
Chợ nào bằng chợ Gò Chàm
Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo
Còn thêm bánh đúc bánh xèo
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
Những con cá chép cá thu
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán thịt phay
Nem tươi chả lụa
Rượu trà no say
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán trạnh cày
Roi mây, lưỡi cuốc
Nẫu bày nghinh ngang
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán sàn sàn
Khoai lang, bắp đỗ
Ðục, chàng, kéo, dao
Xem ra chẳng sót hàng nào
Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào đây mua
Lại còn những món bánh khô
Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay
Những còn hàng dép hàng giày
Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên
Lại còn những món nhiều tiền
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm
Song thần An Thái
Dừa trái Tam Quan
Ðường cát Dương An
Ðĩa bàn Nội phủ
Kể đủ hàng hoa
Cà dê, cà dĩa, cà chình
Ớt ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt cay
Rau răm, rau húng
Bầu thúng, cà tây
Mua bán bạc cây
Những người hàng xén
Mấy chú rón rén
Ăn cắp thiệt lanh
Mấy chú gian manh
Là anh trùm chợ
Buôn mọi bán rợ
Mấy chú An Khê
Ở trển đem về
Xấp trần nài rể
Dễ mua dễ bán
Bánh tráng, kẹo cà
Xoa xoa, đậu hũ
Mè xửng, bánh canh
Dạo hết xung quanh
Hành ngò, cúc cải
Dây dừa, dầu rái
Kẹo đỗ, kẹo dừa
Mấy chị ngủ trưa
Nẫu mua trợt lớt •
(Vè đi chợ)
Từ ngày có mặt thằng Tây
Phu phen tạp dịch hàng ngày khốn thân!
Tai vạ trửa dân
Hắn mần đã nghiệt:
Khắp nơi ráo riết
Giở sổ đếm người
Kể chi lão phụ con trai
Người đi phu cũng tội
Kẻ ở nhà cũng tội
Vua quan bối rối
Họ đập đánh lút đầu:
– Phu phải đi cho mau
Việc quan cần cho kịp!
Một ngày phải kíp
Để kiểm phu chợ Lường
Kẻ có vợ, vợ thương
Theo lên đưa đón
Tay xách cái nón
Vai mang cái bù,
Phải một lớp phu
Tai trời ách nước
Vợ về chồng ngược
Đã cực lắm thay
Kẻ bắt giữa ruộng cày
Người không cho sắm sửa
Chồng trốn, bắt vợ
Con yếu, cha đi
Tiếng khóc như ri
Nông nỗi nước ni
Ruộng cày bỏ trắng!
Mẹ già lòng nặng,
Nằm đêm nghĩ lại thương con
Phải trèo núi lặn non
Giữa chân sim bóng đá
Thấy những đá với gỗ
Chộ thấy săng lẻ với kiền kiền
Con chim hót, vượn rên
Con hùm kêu, mang toác
Phu đi lớp trước
Đến Khe Vẽ, Con Cuông
Chộ phụ lão mà thương
Đi đường xa chịu nắng
Đi đường dài say nắng
Phu đi lẳng lặng
Một tháng trời tròn
Có vàng ăn cũng nỏ biết ngon!
Vè đi phu Cửa Rào
Tượng nghe:
Nước có nguồn, cây có gốc
Huống chi người có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha?
Huống chi người có nóc có gia
Mà sao không biết trung biết hiếu
Hai vai nặng trĩu
Gánh chi bằng gánh cang thường
Một dạ trung lương
Gồng chi bằng gồng xã tắc
Bớ những người tai mắt
Thử xem loại thú cầm:
Trâu ngựa dòng điếc câm
Còn biết đền ơn cho nhà chủ
Muông gà loài gáy sủa
Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi
Huống chi ta:
Chưn đạp đất, đầu đội trời
Ở chi thói sâu dân mọt nước!
Sao chẳng nghĩ sau nghĩ trước
Lại làm thằng nghịch thằng gian
Sao bằng trai trí chúa an bang
Sao bằng trai thừa gia khai quốc
Lẽ phải thời:
Trải gan trung, bồi nghĩa mật
Đền ơn thuở trong bụng mẹ mười tháng sanh ra
Lẽ phải thời:
Vợ thúc chồng, con giục cha
Đền thuở ở đất vua, nắm rau, mớ ốc
Thậm tiếc bấy:
Những tay tham lợi muốn yên mình
Đành để tiếng vong tiên bội tổ
Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ?
Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào?
Lòng sao không xót, dạ sao không bào?
Bờ cõi loạn, nhơn dân đổ thán
Mình nước Hớn, mẹ cha nước Hớn
Hỏi chớ nào thảo nào ngay?
Thù Tây rồi lại ở với Tây
Hỏi chớ nào tôi nào chúa?
Bởi mình mảng tham lam tiền của
Để cho Tây bắt vợ giết chồng
Bởi mình tham, ham hố bạc đồng
Để cho Tây lột da khỏ óc
Thân sao không biết nhục?
Vinh vang chi cũng lấy tiếng Tây
Sung sướng khó trọn đời
Cảm thương kẻ nó hành nó hiếp
Xóc tóc cúp đầu
Cám thương người nó móc nó treo
Hành thân hoại thể
Nghĩ thương không xiết kể
Giận nói chẳng hay cùng
Giận những phường bất hiếu bất trung
Thương những kẻ oan con oan vợ
Thương gã chệch đêm nằm không ngủ
Nóng gan son ra lập nghĩa đường
Giận thằng Tây chẳng giữ phong cương
Sống u mê theo tuồng tả đạo
Trách những kẻ lòng muông dạ cáo
Sống hư hèn sửa trấp nưng khăn
Thương những tay bảng quế trung thần
Thủa gan dạ thẻ ngời bia tạc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần, thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng tham sanh
Lòng địch khái xin cho rỡ tiết
Đêm năm canh thương người chánh liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung trinh
Chốn biên thuỳ lãnh ấn tổng binh
Cờ đề chữ “Bình Tây đại tướng”
Trước trí quân ư Nghiêu Thuấn thượng
Sau vi xã tắc lương thần
Phải cạn lời rao khắp muôn dân
Sửa tấc dạ dìu về một mối
Ai chẳng ra thú trước
Ắt phải luỵ về sau
Bớ trẻ già bé lớn đâu đâu
Kíp bội ám đầu minh tua gắng
Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng
Nương lòng trời cứu lũ sanh linh
Phải cạn lời tỏ hết chơn tình
Cho con trẻ dân đen đều biết
Kẻ nào còn vi ngược trợ Kiệt
Mũi thiên oai nhất quyết không dung.
(Vè đánh Tây )
Que mốt (nhặt 1 que)
Que mai (nhặt tiếp 1 que và nắm lại trong tay cho đến hết bàn)
Cái cò
Nỏ năng
Con khăng
Hòn chắt
Nhấm nha
Nhấm nhắt
Quạ bắt
Sang bàn đôi (rải lại ra chân)
Đôi tôi (nhặt 2 que)
Đôi chị
Đôi cái bị
Đôi cành hoa
Đôi sang ba
Rải bàn ba (rải que lại ra chân)
Ba quả cà
Ba quả táo
Ba lá gáo
Một sang tư
Rải bàn tư (rải lại que)
Tư củ từ
Tư củ cải
Hai sang năm
Năm còn năm
Năm sang sáu
Rải bàn sáu (rải lại que)
Sáu củ ấu
Bốn sang bảy
Rải bàn bảy (rải lại que)
Bảy lìa ba
Ba sang tám
Rải bàn tám (rải lại que)
Tám hai lìa
Hai sang chín
Rải bàn chín (rải lại que)
Chín lìa một
Một sang mười
Ngả năm mươi (đặt xuống 5 que)
Mười vơ cả (lại nhặt lên)
Ngả xuống đất (đặt cả 10 que xuống)
Cất lên tay (nhặt cả lên)
Xoay ống nhổ (quay cả cụm que)
Đổi tay chuyền
Chuyền chuyền một - (*) Một đôi
Chuyền chuyền hai - Hai đôi
Chuyền chuyền ba - Ba đôi
Chuyền chuyền bốn - Bốn đôi
Chuyền chuyền năm - Năm đôi
Đầu quạ (Bắt đầu thả từng que xuống chân)
Quá giang
Sang sông
Về đò
Cò nhảy
Gẫy cây
Mây leo
Bèo trôi
Ổi xanh
Hành bóc
Trứng đỏ lòng (quơ 2 que lên một lần)
Tôm cong đít vịt
Vào làng xin thịt
Ra làng xin xôi
Anh chị em ơi, cho tôi vét bàn thiên hạ.
(Vè đánh thẻ)
Vè ở mướn
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè ở mướn
Muốn cho sung sướng
Sanh tật quáng gà
Đi thì đầu ngả tới ngả lui
Thân tôi ăn cơm muối mặn
Ăn rồi uống hai tô chẵn chọt
Đầu đội nón chút
Vai vác cuốc cùn
Mần giùm mong cho mau tối
Tối về ăn ba hột cơm
Đầu hôm còn lao xao
Khuya lại vắng hoe
Chủ kêu làm bộ không nghe
Ngủ thêm chút nữa
(Vè ở mướn)
Thằng Tây súng ngắn, súng dài
Dân tao: Vồ, gậy, dao bài, câu liêm.
Trường kỳ tao đánh ngày đêm
Đánh cho mày phải đảo điên tơi bời
Văn Giang chẳng phải đất chơi.
Câu ni câu nữa ta về
Lời nguyền gởi lại tối mai
Đỏ phân đây giải thử ai bạc tình
- Bạc chi mà bạn kêu ta bạc
Chim kêu suối ngọt ngọn đèn tỏ lưu ly
Thiếp chờ chàng đã bốn con trăng ni
Chàng không lai vãng nên thiếp ra đi lấy chồng
- Nhất chờ nhị đợi tam trông
Văn kỳ thanh em đã có chồng thời thôi.
Anh là con ông nào bà nào
Nói lên một tiếng cho má đào chào anh
- Anh là con ông cả
Cháu ông xã trong làng
Con ông vua Vũ Đế
Cháu ông Ngọc Hoàng
Cầm kỳ thi họa lên thượng đàng cỡi hạc chơi tiên.
Ba hang lấp đã thành gò
Vũng Tăm Cổ Ngựa gió lò Gành Tiên
Bắc Thừa Thiên giáp Hải Vân
Nam thì Quảng Ngãi giáp gần Núi Phong
Tây thì giáp bến sông Bung
Rừng cao rừng thấp mấy tầng núi xan
Đông thì biển rộng thênh thênh
Đất đai trăm dặm rành rành như ghi.
Con chim đa đa đậu nhánh cây đa (4)
Cất tiếng gáy đa đa ích thiện
Ai đối đặng rày ta liệng khăn cho
- Con cá úc úc nằm trong vũng úc
Vùng đua lên úc úc hồ ven
Ta đã đối đặng ban khăn đây liên.
Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt,
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hởi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Quản bao lên thác xuống ghềnh,
Mía ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương.