Anh hỏi em, không hỏi chi nghề kinh nghề sử
Không hỏi câu chữ uớ nàng
Hỏi cái áo em bận mấy đàng chỉ may
- Buổi nhỏ em có học nghề may
Cắt ra cái áo đủ tay đủ hò
Dài ngắn thì có thước đo
Luồn khuy nách chỉ cho hai đàng
Bốn đinh bốn chéo rõ ràng
Luồn khuy luồn nách hai mươi đàng chỉ may
Đời vua Thái Tổ Thái Tông (3)
Con bế con dắt, con bồng con mang
Bò đen húc lẫn bò vàng
Hai con khiếp vía đâm quàng xuống sông
Thằng bé đi về báo ông
Bò đen ta đã xuống sông mất rồi
Một nhà sinh được ba vua
Vua còn vua mất, vua thua chạy dài
Kiến thái Vương, con thứ 26 của Hoàng Đế Thiệu Trị
Sinh ra ba Vua Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi
Một nhà có bốn chị em
Có tôi là út, tôi thèm đi chơi.
Cả gan may túi đựng trời
Đem nong sảy đá, giết voi xem giò
Ngồi buồn đem thước ra đo
Đo từ núi Sở, núi So, chùa Thầy.
Lên trời đo gió đo mây
Xuống sông đo nước, lại đây đo người.
Đo từ mười tám, đôi mươi
Đo lên chẳng được, đo người mười lăm.
Tuổi em vừa đúng trăng rằm
Tuổi anh mười sáu kết trăm năm vừa.
Hò ơ... (chớ) Cái răng, Ba láng
Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo... (ờ)
Hò ơ... (chớ) Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay
Hò.. ơ..
Ông Tánh, ông Nhâm cùng ông Huỳnh Đức,
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định Tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có ông Võ Tánh.
Tài cao, sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát ngát thiêu mình như không!.. Hò.. ơ..
Uống một ly nhâm nhi tình bạn
Uống hai ly giải cạn cơn sầu
Uống ba ly mũi chảy đầy râu
Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
Uống năm ly cho chó ăn chè
Uống sáu ly ai nói nấy nghe
Uống bảy ly làm xe lội nước
Uống tám ly chân bước chân quỳ
Uống chín ly còn gì mà kể
Uống mười ly khiêng để xuống xuồng
Một xị giải phá cơn sầu
Hai xị mũi chảy đầy râu
Ba xị nằm đâu ngủ đó
Bốn xị cho chó ăn chè
Năm xị làm xe lội nước
Sáu xị vợ rước về nhà
Bảy xị ông bà chửi nát
Tám xị ra đống rác nằm
Chín xị lên băng ca
Mười xị ra nghĩa địa
Nhất xị mở mang trí hoá,
Nhị xị giải phá thành sầu,
Tam xị mũi chảy đầy râu,
Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó,
Ngũ xị cho chó ăn chè,
Lục xị vợ đè cạo gió,
Thất xị mua hòm để đó,
Bát xị … cho nó chết luôn!
(Vè Bợm Nhậu)
Nguồn: Mai Huyền Chi
Vè con gái (2)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Vừa ăn vừa đái
Vừa địt vừa ho
Lỗ mũi thò lò
Lấy tay mà quẹt
Nấu cơm khét lẹt
Kho cá khét ngầm
Ban đêm đái dầm
Ban ngày ỉa trịn
(Vè Con Gái)
Thấy cậu tôi buồn
Giả tuồng làm vui
Phận tôi là cháu
Ngồi buồn nói láo
Cho cậu tôi nghe
Có một chiếc ghe
Chở ba trăm tượng (voi)
Chờ khi gió chướng
Chạy tuốt về te
Có con cá he
Nó xòe đuôi phượng
Có con khỉ ở trong lùm
Nó nhảy lừng tưng, lừng tưng
(Vè Con Người)
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Nghe vè thằng nhác
Đàng trơn đi cho chóng
Cháo nóng húp lộn quanh
Sự lẹ đã rành rành,
Muốn cho kíp nỏ thành,
Muốn cho chầy răng (sao) được,
Nỏ muốn chầy răng được?
(Vè Con Người)
Kiến lửa tập đoàn, kiến vàng ở ổ
Cao đầu lớn cổ thiệt là kiến hùm
Cắn chúng la um: kiến kim, kiến nhọt
Nhỏ như con mọt thiệt là kiến hôi
Động trời nó sôi: kiến cánh, kiến lửa
Bò ngang, bò ngửa: kiến riện đơn chai
Bò dông, bò dài, bò qua, bò lại
Kiến đực nói phải, kiến cái làm khôn
Rủ nhau lên cồn xoi hang lạch cạch
Thuở xưa, trong sách Bàn Cổ sở phân
Sanh ra chúng dân đỏ đen như kiến
Ấu tử làm biếng chẳng có mẹ cha
Không ai dạy la, nên không biết sợ
(Vè Cái Kiến)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về hoa
Vác mai đi xoi
Là bông hoa giếng
Hay bay hay liệng
Là hoa chim chim
Xuống biển mà chìm
Là bông hoa đá
Bầu bạn cùng cá
Là đá san hô
Hỏi Hán qua Hồ
Là bông hoa sứ
Gìn lòng nắm giữ
Là hoa từ bi
Ăn ở theo thì
Là hoa bầu ngọt
Thương ai chua xót
Là hoa sầu đâu
Có sông không cầu
Là hoa nàng cách
Đi mà đụng vách
Là hoa mù u
Cạo đầu đi tu
Là hoa bông bụt
Khói lên nghi ngút
Là hoa hắc hương
Nước chảy dầm đường
Là hoa mùi tưới
Rủ nhau đi cưới
Là hoa bông dâu
Nước chảy rạch sâu
Là hoa muống biển
Rủ nhau đi kiện
Là hoa mít nài
Gái mà theo trai
Là hoa phát nhũ
Đêm nằm không ngủ
Là hoa nói ngày
Bạn chẳng lìa cây
Là bông hoa cúc
Nhập giang tuỳ khúc
Là bông hoa chìu
Ở mà lo nghèo
Là hoa đu đủ
Đi theo cậu Thủ
Là hoa mồng quân
Đánh bạc cố quần
Là bông hoa ngổ
Ngồi mà choán chỗ
Là hoa dành dành
Giận chẳng đua tranh
Là bông hoa ngải
Bắt đi tha lại
Là hoa phù dung
Ăn ở theo luồng
Là bông hoa thị
Theo mẹ bán bí
Là hoa thanh hao
(Vè Hoa Lá)
Ve vẻ vè ve
Cái vè nói ngược
Non cao đầy nước
Đáy biển đầy cây
Dưới đất lắm mây
Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ
Chim thì có mồm
Thẳng như lưng tôm
Cong như cán cuốc
Thơm nhất là ruốc
Hôi nhất là hương
Đặc như ống bương
Rỗng như ruột gỗ
Chó thì hay mổ
Gà hay liếm la
Xù xì quả cà
Trơn như quả mít
Meo meo là vịt
Quạc quạc là mèo
Trâu thì hay trèo
Sóc thì lội nước
Rắn thì hay bước
Voi thì hay bò
Ngắn như cổ cò
Dài như cổ vịt
Đỏ như quả quýt
Vàng như quả hồng
Cao tồng ngồng như chim tu hú
Lùn lụ khụ như chim bồ nông
Hay chạy lon ton là gà mới nở
Cái mặt hay đỏ là con gà mào
Hay bơi dưới ao mẹ con nhà vịt
Hay la hay hét là con bồ chao
Hay bay hay nhào mẹ con bói cá
Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu
Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô
Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú
Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng
(Vè Nói Ngược)
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư ông chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đồng Xâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.
(Vè Phá dinh công sứ Thái Bình)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về rau
Xấc láo hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không tránh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Không ba có má
Rau má có bờ
Thò tay so đo
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốt thiệt rau răm
Sống tới ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tay hay xớ rớ
Vốn thiệt rau co
Làng bắt chẳng cho
Chính là rau húng
Lên chùa mà cúng
Lại có hành hương
Giục giã buông cương
Là rau mã đề
(Vè về rau)
Khu Bốn đẩy ra
Khu Ba đẩy vào
Bỏ chạy sang Lào
Nước Lào không nhận
Tức mình nổi giận
Lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng
Là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống:
“Dô tá dô tà”
Nông nghiệp nước nhà:
Trồng cây rau má
Biển khơi lắm cá
Mười mẻ một cân
Nhà máy phân lân
Một năm hai tạ
Vang tiếng xa gần
Nem chua toàn lá
Còn công nghiệp hoá
Là phá đường tàu
Đục ống dẫn dầu
Cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi
Lũ lụt triền miên
Có nhiều nhất miền
Là đất pha cát
Rừng xanh bát ngát
Là rặng phi lao
Gió mát rì rào:
Gió Lào nóng hổi
Công trình nổi trội,
Vượt cả núi non
Cái cầu con con
Gọi là cầu Bố
Mấy cây lố nhố
Gọi là Rừng Thông
Con gái chưa chồng
Đặt vòng tránh đẻ
Thanh niên trai trẻ
Lại bắt về hưu
Làng xóm tiêu điều:
Nông thôn đổi mới
Dựa vào vách đá
Bắn được máy bay
Đàn lợn thả ngày
“Kinh tế hiện đại”
Sản phẩm hàng đầu
Toàn chum với vại
Mấy bà đứng đái:
“Thủy lợi tưới tiêu”
Phá đường tàu nhiều
Rau không kịp mọc
Trẻ con đi học
Thường nắm đuôi trâu
Tiết kiệm xăng dầu:
Bơi qua sông Mã
(Vè Thanh Hóa)
Thương thay, hỡi các chú ơi
Ăn uống đã rồi thầy kể một văn:
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm,
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề ngăn ngăn
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú nào còn sống về nhà đại minh
Ai ai là chẳng đeo tình
Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cô hồn
Chú nào có vợ có con
Có cha có mẹ hãy còn giỗ chung
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông
Nam Kinh, Quảng Bắc có lòng sang đây
Trời làm một trận gió lay,
Sống làm tướng mãnh, thác rày thần linh
Phù hộ tín chủ bình an
Cửa nhà phú túc vững bền cao xây
Mạo chiên nón khách móng giầy,
Đuôi sam hảo tố chú rày cần lo
Chú thiêng nao đấy phụng thờ
Kính quan tôn sứ để nhờ hậu lai
Nhớ xưa chú vác lăng bài
Cung đao tay nỏ, đầu cài nón chiên
Tay vòng bạc, cổ đeo tiền
Cờ mao một ngọn xông tên chiến trường
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Năm Đồng
Rạng ngày mồng sáu cờ dong lai hàng
Còn ông Tổng Đốc ban sang
Quyết liều một trận chiến trường ba quân
Muốn cho được chữ ái ân
Tuyền quyền vai gánh trung cần đế vương
Vua sai bộ sứ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa
Các chú thác xuống Diêm La
Bắc Nam đôi ngả trẻ già cùng thương
Cơm dày áo nặng nhà vương
Bõ công gối đất nằm sương bao đành
Thác ở chiến trận nên danh
Về thời vua giết chẳng lành được đâu
Chú thì thác ở đầu cầu
Chú thì tự vẫn đâm đầu xuống ao
Ai ai trông thấy thương sao
Lập đàn chẩn tế mà kêu cô hồn
Gọi là mảnh áo thoi vàng
Ít nhiều làm của ăn đường sính thiên
Khuông phù tín chủ bình an
Gái trai già trẻ thiên niên thọ trường.
(Vè Thiên triều văn)
Nem chợ Sãi,
Vải La Vang
Khoai Quán Ngang,
Dầu tràm Đại Nại
Mai phường Trúc
Nước độc Kim Giao
Gạo Phước Điền
Chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát
Quạt chợ Sòng
Cá bống Bích La
Gà Trà Lộc
Môn độn An Đôn
Tôm đồng Mai Lĩnh
Bánh ít Đạo Đầu
Trầu nguồn Khe Gió
Cỗ Trung Đơn
Thơm Bồ Bản
Nghệ vàng An Lộng
Xôi thống Hải Thành
Gạch Trí Bưu
Lựu Triệu Phước
(Vè Thổ Sản)
Quan tướng là quan tướng dai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước còn khi êm êm
Canh sau thua thiệt ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi thò tay móc lọ
Cái ngoảnh lại chuyện trò tỉnh say
Được thời đàn hát cũng hay
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình
(Vè Tổ Tôm, Xóc Đĩa)
Lẳng lặng mà nghe
Cái vè xin thuế
Mùa màng mất tệ
Buôn bán không ra
Kẻ gần người xa
Cũng nghèo cũng khổ
Hai đồng xâu nọ
Bảy ngày công sưu
Cao đã quá đầu
Kêu đà ngắn cổ
Ở đâu ở đó
Cũng rúc mà ra
Kẻ kéo xuống Tòa
Người nằm trên tỉnh
Đông đà quá đông
Trong tự Hà Đông
Ngoài từ Diên Phước
Đại Lộc xin trước
Duy Xuyên, Quế Sơn
Thăng Bình, Hòa Vang…
Huyện mô cũng có
Lạy quan bảo hộ
Dân thiệt cơ hàn
Phải tới kêu van
Nhờ ơn chuẩn giám
Đứa thời lởm chởm
Đùm muối đùm cơm
Đứa chạy lơm xơm
Bọc khoai, mang gộ
Quần thì đóng khố
Áo chí mông tròn
Hình tợ châu ôn
Dạng như Phật đất
Trong Tòa cũng chật
Nằm tới ngoài đàng
Từ phố Hội An
Đến sông Chợ Củi
Kêu nghèo, kêu đói
Xin thuế, xin xâu
Có kẻ cúp đầu
Người thì dài tóc
Đi ngang, đi dọc
Kéo vô, kéo ra
Miệng nói: “Chu choa!”
Lòng thời tở mở
Thằng xâu thuế chợ
Cũng đánh chạy tan
Ông cai đắp đàng
Sợ đều trốn phứt
Ban đầu la cực
Sau lại làm hung
Vì kẻ lung tung
Bắt người sậm sực
Nhộn nhộn nhựt nhựt
Túi búi tăng băng
Kẻ tống dù đen
Người mang trát đỏ
Các quan sức tỏ
Tất cả vọng hô
Từ dân trấn vô
Bất tuân trong dạ
Lạ đà quá lạ
Kinh cũng quá kinh
Trong réo lãnh binh
Ngoài khiêng tri phủ
Có quan tổng cũ
Cũng trấn nước nhầu
Xin thuế xin xâu
Sao hung chi dữ
Từ tỉnh, từ sứ
Chí huyện, chí nha
Thấy những người ta
Nằm thôi chật nức
Sứ đà hiểu sức
Biểu nhau kéo về
Dân cũng chẳng nghe
Cứ việc nằm đó
Lính kêu khố đỏ
Đánh bể mật xanh
Kẻ thì dập mình
Người kêu bể trốc
Mấy anh đầu trọc
Cũng xiểng mang tai
Mấy chú tóc dài
Cũng đơ cán cuốc
Súng dộng rật rật
Roi quất vo vo
Ai cũng tự do
Khôn bề độc lập
Tòa tư ra gấp
Bộ kéo về liền
Tỉnh có quan phiên
Người về hiểu trấp
Hai trăm lính tập
Quan một, quan hai
Súng đạn hẳn hòi
Quan gia minh bạch
Cúp thì trốn sạch
Miệng hết nói vông
Gần sông xuống sông
Gần núi lên núi
Kẻ rúc vô bụi
Người chui vô rừng
Bắt đánh tưng bừng
Bắt đi lịu địu
Vợ chồng bận bịu
Cha mẹ thiết tha
Kẻ giải xuống tòa
Người giam trên phủ
Thuế đà đến vụ
Xâu đã đến kỳ
Chẳng thấy giảm chi
Sao không xin nữa?
(Vè Xin Xâu)
Bài chòi bài tới là ba mươi lá
Dang tay xớn xá là cái gã Ông Ầm
Hay đi sụp hầm, là anh Tứ Cẳng
Một dề trăng trắng, là chị Bạch Huê
Ăn cận nằm kề, là anh Chín Gối
Ba chìm bảy nổi, là chị Sáu Ghe
Lập bạn lập bè, là anh Năm Dụm
Hay đùm hay túm, Tứ Xách đã quen
Quần áo lèng teng, Nhì Nghèo cực khổ
Hay bươi hay mổ, là chị Ba Gà
Có ngạnh có ngà, là anh Tứ Tượng
Phủ màn treo trướng, là chị Tám Dừng
Ướt áo ướt quần, là anh Ngũ Trợt
Rung cây không rớt, Tứ Móc thiệt hay
Con mắt nhắm ngay, Tam Quăng thiệt giỏi …
(Vè bài chòi)
Nghe vẻ nghe ve (4)
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp xới
Trầu chưa kịp têm
Tôi đánh một đêm
Thua ba đồng rưởi
Về nhà chồng chửi
Nói rằng đau máu
Ăn sáu chén cháo
Chồng đơm không kịp
Ăn một cặp bồ câu
Một đầu cá nhám
Một đám rau lang
Một sàng bánh đúc
Một xách rau rừng
Một cặp bánh chưng
Còn la lưng lửng
(Vè bài tới)
Ai mua chiếu hông
Chiếu bông chiếu trắng
Chiếu vắn chiếu dài
Chiếu dệt lầu đài
Cổ đồ bát bửu
Chiếu tây hột lựu
Da lợn bông bao
Chiếu rộng màu cau
Con cờ, mặt võng
Dệt bông chong chóng
Ngũ sắc, bá huê
Đẹp hết chỗ chê
Ngôi sao, tùng lộc
Chiếu trải giường hộc
Chiếu trải giường Tàu
Chiếu trải giường trước
Chiếu trải giường sau
Chiếu nào cũng có đủ
Trong gia chủ ai muốn mua thì mua
(Vè bán chiếu)
Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu
Vô lửa nổi u
Ðó là bánh phồng
Ðem thả giữa dòng
Ðó là bánh neo
Ra nắng dẻo queo
Ðó là bánh sáp
Không ai dám xáp
Ðó là bánh xe,
Xỏ lại tréo que
Ðó là bánh rế
Ăn rồi còn ế
Ðó là bánh dừa
Ăn không có chừa
Ðó là bánh tiêu
Ðể lâu nó thiu
Vốn là bánh ướt
Chưa ăn giấu trước
Nó là bánh cam
Bỏ vô khám giam
Ðó là bánh còng
Ôm ấp vào lòng
Nó là bánh kẹp
Xem coi thật đẹp
Ðó là bánh chưng
Chồng nói mới ưng
Ðó là bánh hỏi
Ðêm nằm mệt mỏi
Ðó là bánh canh
Kéo níu từng khoanh
Ấy là bánh tét
Ráp lại từng nét
Nó là bánh gừng
Bước lên có từng
Ðó là bánh cấp
Nằm ngủ dưới thấp
Là bánh hạ nhân
Mình nó trợt trơn
Ấy là bánh lọt
Ăn thơm mà ngọt
Là bánh hoa viên
Ăn khỏi trả tiền
Ðó là bánh bao
Ðem liệng đàng sau
Là bánh quai vạc
Trắng trong như bạc
Là bánh xu xê
Mặt tràng ê hề
Ðó là bánh bún
Mình đen lốm đốm
Là bánh hạt mè
Thấy ai cũng kè
Ðó là bánh dập
Người thích mặt chắc
Ðó là bánh dày
Nói nghe rất hay
Ðó là bánh mật
Bụng no ấm cật
Ðó là bánh âm
Mình mẩy trắng trong
Là bánh bột lọc
Ai cũng mời mọc
Là cái bánh trôi
Ðứng không thấy vui
Ðó là bánh bò
Nằm cứ co ro
Ðó là bánh cuốn
Cái gì cũng muốn
Nó là bánh đa
Dứt hoài không ra
Nó là bánh dẻo
Nổi trôi khắp nẻo
Ðó là bánh bèo
Giàu mãi không nghèo
Chính là bánh khoái
Ðược người ưu đãi
Là bánh phồng phềnh
Nhẹ mỏng và mềm
Ðó là bánh cốm
Áo quần lốm đốm
Nó là bánh gai
Một giống như hai
Chính là bánh đúc
Tròn cho một cục
Ðó là bánh vo
Ăn hoài không no
Ðó là bánh vẽ
Dùng cho lính trẻ
Là bánh chè lam
Ăn uống tham lam
Ðó là bánh ú
Ði mấy không đủ
Ðó là bánh giò
Từng đoạn quanh co
Ðó là bánh khúc…
(Vè bánh trái (II))
Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát
Ai mà hảo ngọt
Thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan
Này là bánh tét
Còn như bánh ếch
Để mấy ông câu
Hủ lậu từ lâu
Thì ưa bánh tổ
Mấy tay hảo võ
Bánh thuẫn sẵn sàng
Các thứ bánh bàn
Kính như chấp bút
Ai năng thống phúc
Nên đụng bánh gừng
Còn bánh ếch trần
Cu li chia lấy
Kẻ nào trồng rẫy
Thì sẵn bánh khoai
Mấy gã uống say
Bánh men rất quý
Này bánh bao chỉ
Để các thợ may
Má phấn bông tai
Thì ưa bánh dứa
Những người thổi lửa
Thì có bánh phồng
Bánh kẹp bánh còng
Để cho đạo tặc
Còn bánh quai vạc
Đạo chích muốn ăn
Ai thích thoát giang
Thì ăn bánh lọt
Trôi nước rất ngọt
Để các thuyền chài
Dầm mưa hoài hoài
Thì ăn bánh ướt
Bất toại vô chước
Thì ăn bánh bò
Những kẻ hay lo
Ăn bánh tai yến
Ai ham trồng kiểng
Có bánh bông lan
Còn như bánh tráng
Để hạng trai tơ
Mấy ả giang hồ
Bánh bèo sẵn đó
Ai mà mặt rỗ
Thì bánh chôm chôm
Tay xách nách ôm
Bánh bao khá ních
Mấy tay hàng thịt
Da lợn để dành
Còn trã bánh canh
Để ba chú lính
Chủ nhân Lục tỉnh
Thì có bánh in
Đầu bếp mấy tên
Phải ăn bánh rế
Này là bánh nghệ
Cho chị nằm nơi
Kẻ dệt lụa tơ
Bánh tằm sẵn để
Còn như bánh quế
Mấy đấng y sanh
Tọc mạch rành rành
Thì ăn bánh hỏi
Hễ là thầy bói
Thì ăn bánh quy
Mấy ổ bánh mì
Cho nhà nho nhã
Quảng Đông mấy gã
Ăn bánh cà na
Béo thịt thẳng da
Thì ăn bánh ú
Rộng đường mấy chú
Như để sẵn đây
Phật giáo mấy thầy
Xin ăn bánh cúng
Phận tôi lúng túng
Trái đất tôi giành
Ai có lanh chanh
Tôi cho bánh khọt
(Vè bánh trái I)
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua …
(Vè bình dân học vụ)
Một chén giải cơn sầu
Hai chén còn nhơn đạo
Ba chén còn gượng gạo
Bốn chén nổi sân si
Năm chén sập thần vì
Sáu chén ngồi ghì xuống đó
Bảy chén thì đuổi chẳng đi
Tám chén lóc trộn lộn ra
Chín chén lóc trộn lộn vô
Mười chén ai xô tôi ngã
Mười một chén chửi cha ai xô
(Vè bợm nhậu)
Lía ta nổi tiếng anh hào
Sơn hà một góc thiếu nào người hay
Bạc tiền thừa đủ một hai
Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
Làm cho bốn biển anh hùng
Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
Kẻ nào tàn ác lâu nay
Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
Nhất nhì những bực nhà quan
Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
Nhà nào nhiều bạc dư tiền
Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
Tuy chàng ở chốn non đầu
Nhưng mà lương thực vật nào lại không
Lâu la ngày một tụ đông
Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
Mọi người trên dưới trong ngoài
Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
Tiếng tăm về đến trào đàng
Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
Nam triều chúa ngự ngai vàng
Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
Có quan ngự sử bày phô
Tâu lên vua rõ lai do sự tình
Đem việc chàng Lía chiêu binh
Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
Nào khi Lía phá xóm làng
Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
Kể tên những bậc phú hào
Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
Vua ngồi nghe rõ một hai,
Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
– Dè đâu có đứa gian tà
Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
Truyền cho mười vạn binh hùng
Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
Gập ghềnh bao quản núi non
Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. …
(Vè chàng Lía)
Thân tôi coi vịt cực khổ vô hồi
Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần
Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận
Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây
Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng
Vịt chạy qua bờ
Ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn
Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa
Vịt ăn
Ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau
Vịt chạy
Đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc
Tối về nhà đèn chưa tắt
Như đãi yến công nương
Ngày ra tới đứng ngoài đường,
Chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại.
(Vè chăn vịt )
Năm nay kinh tế
Không tiền đóng thuế
Lính bắt, lính còng
Vợ con khóc ròng
Mấy ông thiệt tệ
Tháng này thuế vụ không lo
Cơm ăn không no
Tiền đâu mà đóng
(Vè chống thuế)
Chồng chung khó lắm ai ơi!
Ai bước chân vô đó,
Không ăn ngồi được mô!
Quyền bán với quyền mua
Thời là em không có,
Đâm gạo với xay ló,
Thời là em đã có phần,
Đập đất với khiêng phân,
Đâm xay, rồi nấu nướng.
…
Gẫm như bọn người ở,
Chỉ sáu tháng thời thôi,
Cái thân em ở đời,
Hỏi làm sao chịu được?
Chồng sai đi múc nước,
Vợ bảo lấy que tăm.
Trải chiếu toan đi nằm,
Đọi dì hai chưa rửa
Có ba bốn thúng lúa,
Chị chồng đầu chân xay.
Cám em bắc lên đây,
Cây rau riu chưa cắt,
Ngọn rau riu chưa xắt.
Em làm công việc vặt,
Vừa đến tối canh ba,
Em vừa ngả mình ra,
Con chim kia vừa kêu,
Con gà rừng vừa gáy.
Chồng đánh em thức dậy,
Biểu nấu cơm đi cày;
Gạo em chưa đâm xay,
Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ.
Một tháng sáu phiên chợ,
Bà cho đi một phiên,
Bà trao cho một tiền,
Bà truyền cho đủ giống,
Mua mười đồng thì trứng,
Lại mua mười đồng trầu,
Mua mười tám đồng cau,
Hai mươi đồng thì mỡ,
Lựa còn một chữ,
Tráo lại hàng vôi
Mua đoạn, bán rồi
Vừa hầu tan buổi chợ
Về đến đầu ngõ,
Con đòi: “Bánh mẹ mô?”
– Được chồng riêng tê tồ
Chồng chung, mẹ nỏ dám mua thứ gì!
(Vè chồng chung)
Chợ Lường họp lại vui thay
Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò
Xã đã khéo lo
Lập lều hai dãy
Hàng sồi hàng vải
Thì kéo lên đình
Hàng xén xung quanh
Hàng thịt hàng lòng ở giữa
Ngong vô trửa chợ
Chộ thị với hồng
Dòm ngang xuống sông
Chộ thuyền với lái
Ngong sang bên phải
Chộ những vịt gà
Hàng nhãn, hàng na
Hàng trầu, hàng mấu
Hàng ngô, hàng đậu
Hàng mít, hàng cà
Hàng bánh, hàng quà
Hàng chi có cả
Rồi nào hàng cá
Hàng bưởi, hàng bòng …
(Vè chợ Lường)
Vè chữ phu
Chữ phu là dại
Tơ hồng dán lại
Nên điệu vợ chồng
Đụng con gái hung
Lang dâm trắc nết
Mình làm chí chết
Nó duỗi cẳng nó ăn
Sắm áo sắm khăn
Sắm vòng sắm niểng
Mình nói một tiếng
Nó nói lại mười
Mình làm cả đời
Nó tiêu một lát
Nó mê chốn khác
Nó bỏ nó đi
Mình nói nó săn si
Chữ phu là dại
(Vè chữ phu)
Con Gái,Tính Nết,Thói Hư,Tật Xấu,Ăn Uống,Phương Ngữ,
Nghe vẻ nghe ve (7)
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ mẹ đi ra
Cắp tiền thu giấu
Muốn ăn khoai nấu
Muốn ăn khoai nướng
Muốn ăn xôi chè
Ăn rồi ngồi xếp bè he
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè con gái
Cái lưng bơ bừng cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược vào đi chợ
Béng ướt dụy tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ mồm hả ra
(Vè con gái)
Đầu hôm ngủ tới canh tư,
Còn nằm mà ngủ, muỗi thì nó cắn dư cả vùa
Canh năm thì dộng trống chùa,
Còn nằm mà ngủ, chúng lùa một bên
Ngủ thì quên tuổi, quên tên,
Ngủ cho mặt trời mọc đã lên ba sào
Sáng ra đái dựa hàng rào,
Còn đương ngây ngủ té nhào trong gai
Quét nhà long mốt long hai,
Con mắt dáo dác thấy trai ngó chừng
Bày ra cắt áo, cắt quần,
Cắt không kích tấc, nhằm chừng cắt ngang
Vải thời một tấc một quan,
Cắt thời khoét lỗ khoét hang đâu còn
Bày ra bánh cục bánh hòn,
Nắn bằng chiếc đũa, hấp còn bột không
Sáng ra đi cấy vần công,
Cấy thưa cấy nổi đi không về rồi
Bày ra cháo vịt, cháo bồi,
Cháo không có xác ăn rồi nhả ra
Từ nay cho tới hăm ba,
Cậy mai tới nói người ta không thèm
Chị em thấy vậy nói gièm,
Nấu canh chua tợ như hèm khó ăn
Làm bộ líu lăng,
Bánh bò, bánh thuẫn
Làm không mí mửng,
Lớp trọc lớp đen
Sang qua bánh men,
Thiệt là chai ngắt
Làm bộ ngoe ngoắc
Đi hấp bánh gừng
Quạt lửa phừng phừng
Mặt vàng như nghệ
Uổng công bốn bể
Học lúc văn minh
Nghĩ lại phận mình
Thiệt là thưa thớt
(Vè con gái hư)
Con gái làng Sấu
Hay cấu hay cào
Cấu ra bờ rào
Cấu vào chuồng lợn
Nào ai có tợn
Lấy gái làng này?
Nó vác cả cày
Ra đồng nó cấu
Nó vác cả đấu
Ra đồng nó đong
Nó vác cả nong
Ra đồng nó quạt
Nó vác cả tháp
Ra đồng nó xây
Nó gói cả mây
Bỏ trong giỏ nó
Nó thắt khăn đỏ
Nó múa gươm thần …
(Vè con gái làng Sấu)
Da dẻ vàng khè
Là anh chàng thị
Tròn như lợn ỉ
Là quả dưa vàng
Nằm đất lang thang
Là anh dưa chuột
Mồm nói ngọt xớt
Là mấy cô hồng
Xù xì lắm lông
Là anh cu dứa
Da đỏ như lửa
Là thằng ớt cay
Má mịn hây hây
Cô mơ cô mận
Ruột thì đỏ thắm
Là cái ả đào
Hay rụng xuống ao
Thằng sung chua chát
Da vàng trơn mát
Là quýt với cam
Chua rụng răng hàm
Cô chanh cô khế
Xinh tròn be bé
Em táo đầu nhà
Con bảy con ba
Chị dừa mắn đẻ
Hàm răng to khoẻ
Là bác chuối tiêu
Nằm đất mốc meo
Là anh chàng bí
Thon như cái bị
Là chị bầu xanh
Dáng dài thanh thanh
Cô xoài cô mướp
Mình dài gai góc
Cụ mít nhà ta
Đỏ bóng nước da
Cà chua chính cống
Vỏ xanh ong óng
Chính thị bà cau
Nam nám da nâu
Hồng xiêm, mắc cọp
Xù xì bỏng rộp
Mướp đắng eo ôi
Ngọt mát cả môi
Xin chào cô nhãn
Mặt mày đỏ thắm
Cô vải đang chờ
Mắt mở lơ mơ
Thằng na buồn ngủ.
(Vè các loại quả)
Cầu sắt mà bắc ngang sông
Chàng ơi sang tỉnh mà trông chẳng lầm
Hà Nội bắc sang Gia Lâm
Tính cây lô mét độ năm cây tròn
Họa hình Tây bắc ống nhòm
Ngắm đi ngắm lại xem còn cong không
Giở về hội nghị cộng đồng
Đến năm Mậu Tuất khởi công bắc cầu
Mộ phu khắp cả đâu đâu
Xây từ Ái Mộ bắt đầu xây ra
Bắc qua con sông Nhị Hà
Chia khoang làm nhịp, mười ba cột vừa
Lập mưu xây được bây giờ
Chế ra cái chụp để mà bơm lên
Bơm hết nước đến bùn đen
Người chết như rạ vẫn phải len mình vào
Vỡ bơm nước lại chảy vào
Chết thì mặc chết ai nào biết không
Mỗi giờ thuê có một đồng
Xi măng với đá, dây dòng xuống xây
Đóng phà, đóng cột, cắm cây
Xây trên buông xuống thành ngay chân cầu
Bây giờ đục sắt bắc cầu
Cột ngang, cột dọc, đường tàu song song
Bắc từ Dốc Gạch bắc sang
Chính giữa đường sắt làm đường tàu đi
Đôi bên nhịp sắt chữ chi
Bên đi, bên lại chớ hề gặp nhau
Còn hai bên cạnh rìa cầu
Sắt chằng hoa thị đi cầu không kinh
Hai vì đèn máy sáng tinh
Ai đi đến đấy có xinh chăng là
Kẻ đi người lại hằng hà
Mưu kia nào kiệt tính đà cũng thông
Bề khoát tàu chạy bên trong
Khoát vừa ba thước đủ dùng không hơn
Đường ô tô chạy rập rờn
Cũng khoát thước rưỡi đường trơn phẳng lì
Còn đường của An Nam đi
Khoát hơn nửa thước vậy thì tính sao
Bây giờ kể đến bề cao
Cao hơn mười thước ai nào biết không
Làm xong Tây tính tiền công
Lập mưu, lập kế trả công chẳng rành
Chế ra giấy bạc dâu xanh
Trừ tiền giấy bút hết toanh dăm đồng
Tiền công chẳng đáng tiền công
Kẻ còn, người mất mà lòng xót thay!
Hội cầu năm ấy vui vầy
Nhớ ngày hăm mốt tháng hai, công hoàn.
(Vè cầu Doumer)
Vè vẻ ve ve
Nghe vè kẹo kéo
Mần thiệt là khéo
Ai thấy cũng thèm
Ai thấy cũng khen
Rằng kẹo Sa Đéc
Người nào chưa biết
Quảng cáo là mua
Cô bác ông bà
Xin mời ăn thử
Ngon hay là dở
Cứ việc chê khen
Có bán có thêm
Đồng xu một miếng
Ai trả hai tiếng
Sáu miếng năm xu
Ai trả lu bù
Thì tui không bán
Thợ khéo thượng hạng
Không phải lôi thôi
Đậu không thúi hôi
Bánh phồng thiệt xốp
Mật đường đem lược
Không cặn không ruồi
Ai ăn kẹo rồi
Thì ghiền kẹo kéo
Ai thường lui tới
Cũng phải mua về
Kẹo ngon rẻ rề
Nổi danh khắp chốn
Không cần hao tốn
Mà có kẹo ngon
Mua cho bà con
Cùng là giòng họ
Bán không mắc cỡ
Tui bán sạch trơn
Tui xin cảm ơn
Ai mua kẹo kéo
Sa Đéc xứ khéo
Mần kẹo thiệt tài
Ăn hủy ăn hoài
Ai mua kẹo kéo…
(Vè kẹo kéo Sa Đéc)
Tai nghe nhà nước mộ dân (2)
Những lo những sợ chín mười phần em ơi
Anh đi mặt biển chân trời
Ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền
Dầu mà ông Tây có bắt đi làm phên
Nhứt thắng nhì bại không quên cái ơn sinh thành
Xót thương em vò võ một mình
Anh đi biển thẳm non xanh tứ bề
Vai mang khẩu súng lưng giắt lưỡi lê
Thôi thôi em bồng con ở lại lo bề làm ăn
Ví dầu anh có mần răng
Nơi mô xứng gió vừa trăng em đành
Phận anh vạn tử nhứt sinh
Trên trời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn
Tư bề sóng vỗ từng cơn
Đau lòng xót dạ nhiều cơn bớ nàng
Trăm lạy ông trời cho đặng chữ bình an
Đóng lon chức đội về làng hiển vinh
Làm thịt con heo cúng tế tại đình
Rượu chè chàng đãi dân tình một phiên
Tay bắt tay miệng lại hỏi liền
Anh đi mấy tháng anh có phiền hay không
Bây giờ anh bước xuống tàu đồng
Tối tăm mù mịt như rồng trong mây
Hai bên những lính cùng Tây
Quan gia kéo tới chở đầy tàu binh
Từ đây hai chữ tùng chinh
Phận anh cam chịu linh đinh sóng dồi.
(Vè lính mộ)
Ve vẻ vè ve
Nghe vè mụ nhác
Không lo sương nác
Chỉ biết ngồi ăn
Ăn rồi lại ngủ
Ngủ rồi lại ngồi
Nước chảy bòng trôi
Mỗi ngày qua bữa
Luộc rau nhác rửa
Uống nước nhác hâm
Chàm làm chụa lụa
Ngó xuống đôi đũa
Lọ luốc lọ lem
Ngó lại chị em
Xem ra ôốc dôộc
Ngó lại trên trốc
Rận mẹ rận con
Nói không kiêng dè
Chỉ hay sinh sự
Cái mặt chự bự
Như thể cái mâm
Tấm lưng tày thúng
Dân chúng đều hay
Ai ai cũng biết
(Vè mụ nhác)
Nghe vẻ nghe ve (3)
Nghe vè nói ngược
Tàu chạy trên bờ
Ngựa đua dưới nước
Gà cồ hay ủi
Heo nái hay bươi
Sáng trăng ba mươi
Đêm rằm trời tối
Nấu cơm bằng cối
Giã gạo bằng nồi
Gói bánh bằng vôi
Ăn trầu bằng bột
Xới đất bằng liềm
Bửa củi bằng kim
May áo bằng búa
Dao bầu gánh lúa
Đòn xóc bửa cau
Cọp tắm dưới bàu
Cá bơi trên lúa
(Vè nói ngược)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè nói ngược
Nắng hạn đầy nước
Mưa dầm khô rang
Đám cưới đình làng
Kì yên ngoài chợ
Nhà giầu khất nợ
Nhà nghèo cho vay
Đàn bà đi cày
Đàn ông đi cấy
Ghe nổi thì đẩy
Ghe cạn thì chèo
Nuôi chuột bắt mèo
Nuôi heo lấy trứng
Xu xoa thì cứng
Đá núi thì mềm
Trời nắng về đêm
Ban ngày sao mọc
(Vè nói ngược )
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước,Thương Nhớ
Vè phu làm đường lên Tam Đảo
Tôi có nhời thăm u cùng bá
Ở trên này khổ quá u ơi
Khi nào thong thả mát giời
Mời u quá bộ lên chơi vài ngày
Làm kíp chả được tiền ngay
Phải ăn gạo ngữ của thầy cai Sơn
Một đồng mười sáu bơ đơn
Đong đi đong lại chỉ còn mười lăm
Thầy cai cứ đứng chăm chăm
Hễ ai hút thuốc lại nhằm cắt công
Trời mưa có thấu hay không
Quanh năm chẳng có một đồng thừa ra
Lấy gì đồng bánh, đồng quà
Lấy gì mà gửi về nhà nuôi con
Mười năm làm ở đỉnh non
Ở nhà cha mẹ vợ con mất nhờ
Thân tôi khổ đến bao giờ?
U Minh nước đỏ
Choại, dớn, cóc kèn
Ăn ở cho hiền
Dạo chơi với rắn
Bất kỳ sâu cạn
Rắn nước, rắn râu
Bay trên trời cao
Rắn rồng uốn khúc
Chạy ngang chạy dọc
Rắn ngựa phóng theo
Hút gió thật kêu
Là con rắn lục
Mái gầm lục đục
Bò chậm như rùa
Mở xuống bất ngờ
Hổ mây ẩn núp
Coi chừng nó quất
Là con rắn roi
Ra đồng dạo chơi
Là rắn bông súng
Đựng đầy một thúng
Là rắn cạp nia
Ăn rồi ngâm nghe
Hổ hành nấu cháo
Dữ mà nhỏ xíu
Đúng thiệt rắn giun
Chớ nên coi thường
Con rắn ri cóc
Rắn mà muốn học
Làm cậu ông Trời
Có khách hay mời
Là con hổ chuối
Con rắn ri cá
Thấy nước thì ham
Hình vóc hiên ngang
Rắn roi, mỏ rọ
Thật là đáng sợ
Chàm oạp, hổ mang
Xét cho đàng hoàng
Rắn thì có nọc
Đừng châm, đừng chọc
Bỏ mạng lìa đời
Trí khôn con người
Biến loài độc ác
Lấy nọc làm thuốc
Trị bệnh cứu dân
Đau khớp trật gân
Ê mình nhức mỏi
Lại còn một mối
Lấy thịt xé phay
Chiều nhậu lai rai
Bổ ơi là bổ!
(Vè rắn U Minh)
Nghe vẻ nghe ve (6)
Nghe vè thịt chó
Thằng nào xấu mặt
Bắt nước cạo lông
Thằng nào ở không
Nạo dừa, rang đậu
Thằng nào muốn nhậu
Thằng nào muốn vô
Thì ngồi chính giữa
Thằng nào ói mửa
Thì đạp xuống sàn
Đánh lộn la làng
Vì sàng thịt chó
(Vè thịt chó)
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu
(Vè thời Bao Cấp)
Trách vua Tự Đức hai lòng
Đi về bên đạo, bỏ công bên đời
Mần quan ra rồi
Vượt lòng không cạn
Tây sang buôn bán
Viện lấy giữ nhà
Ai biết sự là
Tây sang cướp nước
Khi mới sang, đánh được
Răng không đánh đi cho
Những bậc quan to
Đều cáo quan về lão
Quan huấn, quan giáo
Gánh của về mần giàu
Mần quan lớp sau
Ra tuồng đã khổ
Mần quan hậu thổ
Phải ăn lương nhà
Xuất thân xông pha
Cức mình biết mấy
Tây sang hắn quấy
Hư hại nước Nam
Trở ra mà làm
Nhờ vua ái ngại
Ăn lương vua mãi
Trở lại mần quan với Tây
Đi ra không nhớ nghĩa thầy
Cũng đòi ôm quyển sách
Ba năm vua hạch
Học trò đi thi
Đỗ được ông chi
Cũng nhờ cái phận
Ra trữa chiến trận
Thiên hạ chết nhiều
Mần quan bên triều
Trở lại mần quan bên giáo
Nó thà cáo lão
Cũng như không đi
Như ông quan lĩnh tác vi
Cũng đòi làm quan trữa tỉnh,
Đem Tây đem lính
Đốt biết mấy ngày
Khói lửa chất đầy
Một trời đỏ đậm.
Nhờ quan cậu ấm
Bọc lại bên sông
Đốt phá hại đồng
Nhất là quan lĩnh.
Mần quan trữa tỉnh
Ai được cậy nhờ?
Xuân Liễu, Xuân Hồ
Mần giặc ở mô?
Tây biết hắn vô
Cắn răng mà chịu
Mần đồn Xuân Liễu
Các quan ta kép về Tây
Sức phu chặt cây
Tre gai rào bên đạo
Ông tra, bà lão
Đời thủa mô như ri
Kiếp người năm ni
Mần dân đã khổ
Nho Lâm, Lò Cổ
Đốt biết mấy ngày
Bỏ nhà mà đi
Quyên sắt về rèn đồ hoả mại
Rèn đồ khí giới
Súng ống cho nhiều
Cho đủ phạng, siêu
Tháng năm chưa dễ
Thúc thành đội vệ
Tuyển lại tinh binh
Để chờ triều đình
Viện Tàu về đã
Bỏ mành bỏ giã
Vượt biển sang Tàu
Cho khá mau mau
Sang đến năm sau
Tháng mô không định
Ba mươi sáu tỉnh
Tây giữ nẻo đàng
Tàu không thể sang
Bình Tây giúp nước
Ba mươi năm còn được
Nữa là năm sau
Quyên hết nhà giàu
Khẩn đồn điền cày ruộng
Cối xay ba họng
Đổ biết khi mô cho đầy
Trên trời hết mây
Ta đây mới hết tiền, hết bạc
Hồi buổi loạn lạc
Quấy chắc cho hay
Bên giáo có Tây
Ta đây không có
Tàu sang đã chộ
Ăn hết lương tiền
Giừ phải về cho dân yên
Chứ không mần chi được
Quân ông Lưu lớp trước
Nỏ đánh lại Tây
Huống chi là ta
Lưa ba gian nhà
Đừng còn hăm hở
Đi ra cũng lỡ
Ở nhà không đành
Những kẻ học hành
Thúc thành chưa vội
Dân sự ở túp
Thần thánh ở đền
Tại cả hai bên
Ra rồi quấy chắc
Ai sinh ra giặc?
Ai rước Tây về?
Đốt phá hai xã lưa chi
Từng mô dưới tỉnh cu ly
Từng mô đồn binh thế?
Mần quan trữa tỉnh Nghệ
Cức biết mấy phần
Nỏ lẽ về mần dân
Như các quan văn thân
Ra mần mới phải
Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đền chùa
Nghĩ rằng như vua
Đang còn phải chạy
Hồi giừ bay nhảy
Giáo múa, gươm khua
Đặt bõ nhờ vua
Một hồi đã sướng
Như ông quan thượng
Ở trữa tỉnh với Tây
Thi đỗ khoa này
Ra mần như rứa
(Vè trách vua Tự Đức hai lòng)
Nghe vẻ nghe Ve
Nghe vè về Hoa
Hoa nhài thoang thoảng bay xa
Mùi thơm khác hẳn, thật là có hương
Hoa cúc không sợ thu sương
Để màu ẩn dật, mùi hương đậm đà
Hoa sen mùa hạ nở ra
Ở bùn mà lại không pha sắc bùn
Hoa mai chót vót đỉnh non
Trắng như bông tuyết hãy còn kém xa
Mẫu đơn phú quý gọi là
Hải đường sắc đẹp nhưng mà không hương
Hoa quỳ nhất ý hướng dương
Hoa liễu trong trắng, trông thường như bông
Phù dung mọc ở bên sông
Hoa đào gặp được gió đông mới cười
(Vè Về Hoa)
Cô bác xóm giềng
Lẳng lặng mà nghe
Cá nuôi thiên hạ
Là con cá cơm,
Không ăn bằng mồm
Là con cá ngác
Không ăn mà ú
Là con cá voi,
Hai mắt thòi lòi
Là cá trao tráo
Không may quần áo
Là con cá chim,
May áo không kim
Là con duối dẻ
Sống lâu mạnh khoẻ
Là cá trường sanh
Ở ngoài đầu gành
Là cá bống cát
Đi thời xách mác
Là con cá đao
Đốn cây mà rào
Là con cá chép
Nó kêu óp ép
Là con cá heo
Buộc lại mà treo
Là cá cờ phướng
Để lên mà nướng
Là cá nóc vàng
Để được hai thoàn
Là cá nhám nghệ
Đi thời chậm trễ
Là cá lù đù,
Đầu óc chù vù
Là con cá úc
Bắt lên chặt khúc
Là con cá sòng
Vợ đánh với chồng
Là con cá sào
Mình cũng như dao
Là cá lưỡi trâu
Eo đầu ngắn cổ
Là con cá ét
Miệng mồm lép xẹp
Là con cá móm
Chơi trăng cả hám
Là con cá thu
Vừa sủa vừa tru
Là cá hàm chó
May ngồi xỏ rỏ
Là cá hàm be
Lắng tai mà nghe
Là con cá mỏng
Việc làm cho chóng
Là con cá mau
Lãi đãi theo sau
Là con cá nóc
Chân đi lốc thốc
Là con cá bò
Ăn chẳng hay no
Là con cá liệc
Gái tham huê nguyệt
Là con cá dâm
Lấy cây mà đâm
Là cá nhám nhọn
Nước da lạm xạm
Là cá nhám trâu
Mặt trắng làu làu
Là cá bạc má
Hình đen như quạ
Là cá ô mun
Đặt giữa đình trung
Là cá ông sáp
Vừa đi vừa táp
Là cá dọ đàng
Kiều lạc khua vang
Là con cá ngựa
Rước thầy về chữa
Là cá tà ma
Đi xét từ nhà
Là con cá sát
Đắp bờ mà tát
Là cá ở mương
Giống không biết đường
Là con cá lạt
Kể cho cô bác
Nghe lấy mà chơi
Kể đã hết hơi
Xin cho tôi nghỉ.
(Vè về cá)
Vo vỏ vò vo
Cây nhỏ cây to
Cây cò đậu
Cây sáo sậu trèo
Cây rắn leo
Cây mèo nhảy
Cây gãy cành
Cây xanh lá
Cây xây rạ
Cây chồng rơm
Cây đơm quả
Cây xả hương
Cây bám tường
Cây cắm đất
Ta ngồi ta nói thật
Cây tre xanh cật
Ruột trắng như bông
Cây mít đỏ lòng
Cây thông nứt vỏ
Cây ngó thân mềm
Cây sên cứng cáp
Cây núc nác da xanh
Cây chanh chua quả
Cây vả cây sung
Là cùng chú bác
Cây năn cây lác
Hay mọc giữa đồng
Cây đậu cây bông
Hay ưa ruộng cạn
Cây khoai lạng vạng
Leo dọc vồng cao
Ăn quả cây nào
Ta rào cây ấy
Quả hồng béo ngậy
Da đỏ hồng hào
Quả cam xanh xao
Múi ăn thì ngọt
Quả bòng quả nhót
Chua lét chua le
Quả đào ngon ghê
Quả na ngon gớm
Quả thị vàng rộm
Thơm lựng cả nhà
Hương ổi bay xa
Gọi người đến hái
Còn cây cỏ dại
Chẳng ai thèm nhìn
Mời bạn ngồi im
Nghe tôi nói thật
Cây lúa là nhất
Ở giữa trần đời
Ta đi dạo khắp trăm nơi
Cây lúa đẹp nhất ở nơi đồng làng
Một cây
Hai cây
Ba cây
Bốn cây
Năm cây
Cây làm vày
Cây làm cột
Cây che dột
Cây làm xà
Cây cúng hoa
Cây đơm trấy
Cây cho gậy
Cây đóng thuyền
Cây đan phên
Cây chắn giậu
Cây đậu leo
Cây khiêng heo
Cây đèo chó
Cây đánh hổ
Cây bắt voi
Cây làm roi
Đi đánh giặc.
(Vè về cây)