Một mẹ sinh đặng ngàn con
Trai có gái có , tài khôn rõ ràng
Mặt trời đã xế vàng vàng
Con xa ngái mẹ lại càng thương thay
Cách nhau đã bốn năm ngày
Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng
Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều gia nhân
Cuộc đời luống những phù vân
Trở về bến cũ cố nhân xa rồi.
(Bản cũ: Phong Dinh có bến Ninh Kiều)
Năm nay niên hiệu Duy Tân
Mùa màng thơ thới con dân thủ thường
Mấy năm qua ăn những gạo lương 4
Đậu nành bắp sắn tứ phương đặng nhờ
Nghĩ thương dưới nước rồi lại lên bờ
Kẻ ăn vay người ăn mượn cũng nhờ bà con
Tháng ba ăn những ngọn rau lang non
Đậu nành bắp sắn đà bao năm rày
Tiếng đồn ông Tây qua đo đạc địa đồ
Làng trên xã dưới treo bồ ngọn cây
Đổi chữ Nho lại học chữ Tây
Lập trường quốc ngữ dẹp thầy chữ ta
Mười lăm cho chí đến những ông già
Cơm thời ruột tượng xuống tòa đổi ban
Hào mục cho chí viên quan
Đội đơn vô lại các làng xin xâu
Chiều chiều ông sứ ổng lại lắc đầu
Dân bay thủng thẳng để lên chùa Cầu hãy hay
Công ích tao giảm ba ngày
Bạc hai đồng sáu xin rày không ra
Dân bay là dân có cha
Làm chi lên tỉnh xuống nha mà nằm
Cúi đầu mà lạy quan trên
Có giết chịu chết chứ còn chi đâu
Ba chú chết tại sở xâu
Mười sáu phủ huyện thảy đầu phục khăn
Các làng các xã đi liễn tế văn
Hào lại trong tổng lập lăng mà thờ
Việc này là việc bao cơ
Ba chú Hòa Hiệp cùng chờ quan ta
Dân ta thảm thiết xin giảm thuế cho đàn bà
Kẻ vô đàm đạo người ra tảo tần
Mấy năm trên xin giảm thuế thân
Bạc hai đồng sáu chín mươi phân nhờ cho dân con.
Anh thử xem từ bắc chí nam
Mấy ai chịu tòng quân nhập ngũ để đi sang Pháp Đình
Đây là quê hương mình
Mấy mươi năm trời chịu nhục
Sao mình không lo toan
Anh nhìn xem từ trong xóm đến ngoài làng
Biết bao người đói rách bần hàn vì đâu
Còn lo chạy thuế chạy xâu
Xâu cao thuế nặng nào ai đâu giúp mình.
Tình chồng vợ anh không tưởng tới
Nghĩa sinh thành anh chẳng kể chi
Sao anh bất thức bất tri
Anh đi mộ lính được chi đâu nà
Anh nghe em hỏi đây mà
Ai sinh ai đẻ anh ra thành người
Sao anh không sợ người cười
Cái đời lính mộ mấy đời sướng thân
Hỏi anh anh phải phân trần
Cha già mẹ yếu đỡ đần cậy ai?
Đêm khuya phảng phất gió tây
Người thương thức dậy lời bày đón đưa
Ghe xuôi qua bến Phó Thừa
Hội An tới đó trời đà rạng ra
Hỡi người hoa nguyệt nguyệt hoa
Sáng mai đến Phố đôi ta trao lời.
Đầu năm ra mắt mồng ba
Cúng ông Hành Khiển cùng là Hành Binh
Bói giò phải bói cho tinh
Xem tường màu sắc chân hình rủi may
Đôi giò cần để thẳng ngay
Nhuận hồng vàng ánh năm nay chắc giàu
No rồi chụm móng khít khao
Đỡ cái chặt chẽ cũng giàu cũng sang
Đỏ mà gân máu nổi loang
Là điềm hao của tan hoang cửa nhà
Trắng xanh bền bệt thây ma
Ấy điềm tang chế ông bà cháu con
Da gà tươi mượt vàng son
Đi thi chắc đậu đi buôn chắc lời
Khe chân gà hở tơi bời
Tiền vô nhiều cũng phủi rồi tay không
Ba ngón đội lên một chồng
Tốt thì có tốt, phải phòng người trên
Nhờ người giúp đỡ mới nên
Tự mình tự chủ không bền được đâu
Cũng ba ngón chân chụm đầu
Một hàng ngang mặt, thúng đâu đựng tiền
Ngón cái mà cong nghiêng nghiêng
Đâm vô khe hở, lụy phiền đến nơi
Quan phi khẩu thiệt tơi bời
Tai bay vạ gió kêu trời sao đang
Bốn chân cong quẹo loạn hàng
Cả năm bươn chải biết đàng nào yên
No rồi như nở cười duyên
Da hường tươm mỡ của tiền đầy kho
Da chân xam xám màu tro
Gân xương khô héo có lo cũng nghèo
Đôi giò cái trễ cái treo
Bên ngay bên quẹo nằm queo một mình
Da vàng mỡ đọng lung linh
Làm chơi được thiệt, mặc tình vui chơi
Bốn ngón đều ngay lên trời
Nồi gọ xẹp lép thì thôi còn gì !
Gặp năm tuổi xấu thêm nguy
Ốm đau tang chế, quan phi tụng đình
Ngón chân rời rạc thân hình
Thiếu người giúp đỡ, thiếu tình hữu giao
Gặp cơn sóng gió ba đào
Một tay lèo lái, ai nào giúp ta!
Chân gà cấm hở, quẹo ra
Da gà tươi nhuận mới là bình an
Cúng gà ra mắt nghiêm trang
Làm gà kỹ lưỡng, luộc càng thêm tinh
Có thành chắc có thần linh
Cầu ông Hành Khiển Hành Binh hộ trì
Cho mình gặp hội khả vi
Mỗi chu niên trọn, chu kỳ bình an
Mùng ba Tết tới bước sang
Lại cúng ra mắt huy hoàng như xưa.
(Phú Bói Giò Gà)
Anh trải chiếu ra
Anh ngồi một góc, em ngồi một góc
Còn hai góc nữa thiếp khóc chàng than
Biết chừng nào cho phượng gặp loan
Cho đây gặp đó thở than đôi lời
Dao vàng cắt giải y môn
Thiếp tôi đần dại lấy chồng khôn mà nhờ
Ai dè trăng gió mập mờ
"Giao đoan tình phụ" thiếp nhờ vào đâu (*)
Vì chàng chẳng tại thiếp đâu
Chàng xe chỉ mảnh thiếp khâu sao bền
Ếch! Ếch! Mày mới về đây.
Nói dăm câu chuyện cho thầy mày nghe.
Thân ếch là thân ếch hèn,
Giường chiếu chẳng có nằm trần đất không.
Gặp ông quỉ lão, thần thông,
Thắt llưng bó đuốc tìm tôi việc gì?
Tìm tôi có việc phu thê,
Tìm chốn không vợ tìm nơi không chồng.
Ông bắt tôi ông bỏ vào lồng,
Tôi kêu ễnh ọp chẳng trời nào tha.
Tháng tám lúa tốt xanh xa,
Tháng ba gieo mạ sương sa ra ngoài/
Tôi ngồi tôi nấp bụi khoai,
Ông ném một mồi tôi phải tòi ra.
Tham ăn mắc phản răng hà,
Cha hời! Mẹ hỡi! Xiên qua mép này!
Đồn đây có thầy thuốc hay,
Tôi về tôi trách ông cậu bà dì.
Sẵn dao sẫn thớt tù tì bằm tôi
Thứ nhất là củ hành hoa,
Thứ nhì nước mắm thứ ba củ riêng
Thứ tư là hạt hồ tiêu,
Tán ra cho đều vừa hắc vừa cay.
Khen thay thằng bé hai tay,
Nó gắp miếng nạc có chầy miếng xương.
Trầu đâu ăn miếng đỏ môi?
Rượu đâu uống chén cho tôi lên giường.
(Phụ Đồng Ếch)
Ông đồng ông chổi (2)
Trôi nổi mà lên
Ba bề bốn bên
Nổi lên cho chóng
Nhược bằng cửa đóng
Phá ra mà vào
Cách chuôm cách ao
Cách ba bờ rào
Cũng vào cho được
Cách sông cách nước
Cũng bước mà sang
Cách đò cách giang
Cũng sang cho lọt
Cái roi von vót
Cũng vọt cho mau
Hàng trầu hàng cau
Là hàng con gái.
Hàng bánh hàng trái,
Là hàng bà già.
Hàng hương hàng hoa
Là hàng cúng Phật
Đội mũ đi tế,
Là quan trưởng-đô, (là ông Cẩm Đô)
Đánh trống phất cờ,
Là phụ đồng chổi !
(Phụ Đồng Chổi)
Bảy phủ huyện ấy tên chi
Sát ngoài phía Bắc vậy thì Hòa Vang
Giữa thì có phủ Điện Bàn
Tỉnh thành kia cũng ở ngang một bề
Duy Xuyên huyện ở trong kề
Quế Sơn vô nữa thì về Phủ Thăng
Hà Đông Quảng Ngãi sát giăng
Còn huyện Đại Lộc mới tăng lên cùng
Nhìn xem non nước trùng trùng
Ngõ nguồn có sáu phải không tên gì
- Hữu Bang Sát núi Trà My
Chiên Đàn nguồn ấy ở về phía trong
Thu Bồn một dải quanh vòng
Ô Da thì ở trên dòng sông Con
Lỗ Đông sát núi Cao Sơn
Cu Đê thì ở gần hòn Hải Vân
Lại xem đến dưới hải phần
Cửa biển có bốn xa gần đâu đâu
Cu Đê Thủy Tú có cầu
Đà Nẵng hải khẩu nước sâu đậu tàu
Phố cùng Đại Chiếm gần nhau
Còn cửa Đại Yểm ở sau Tam Kỳ
Kìa bảy trạm ấy tên chi
- Nam Chơn phía bắc trong thì Nam Vân
Dọc theo đường cái kể lần
Nam Hòa thì lại ở gần phủ Thăng
Quế Sơn Nam Ngọc sát giăng
Còn trạm Nam Phước 13 ở đằng Duy Xuyên
Miếu Bông Nam Giản gắn liền
Nam Ô thì lại ở miền Hóa Ô
Ngàn năm xây dựng cơ đồ
Vật trong thổ sản tỉnh mô dám bì
Nông Sơn than đá thiếu chi
Bảo An đường tốt Trà My quế nhiều
Bạc vàng ở tại Bồng Miêu
Phú Nam Phú Thượng biết bao nhiêu chè
Tơ cau thuốc chở đầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần
Một ngàn bốn chục xã dân
Ai ai cũng có một phần giang sơn.
Em là con gái phủ Từ
Lộn chồng trả của theo sư chùa Viềng
Đói ăn thịt chó nấu riềng
Bán rau mảnh bát lấy tiền nộp cheo
Dù còn thiếu thốn bao nhiêu
Xin làng đừng có cắm nêu ruộng chùa