Vào vườn xem khỉ hái hoa
Xem voi đánh sáp xem gà nhuộm răng
Xuống sông xem cá đấu roi
Xem tôm quần thảo xem trai trở mình
Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ cho hành có hoa
Bao giờ cho khỉ đeo hoa
Cho voi đánh sáp cho gà nhuộm răng
Đi mô cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
- Em lên non anh cũng lên theo,
Mà em xuống thuyền, anh cũng xin đeo theo mạn thuyền.
Em vào rừng chẳng biết lối ra
Thấy cây núc nác ngỡ là vàng tâm
Cớ sao mà vội và lầm (*)
Núc nác thì nổi, vàng tâm thì chìm
Nhớ ai nên phải đi tìm
Chân đi thất thểu như chim tha mồi
Tìm ai hết đứng lại ngồi
Hết núi lại đồi chẳng biết lối ra
Đàn ông tính khí hoang tàng
Đàn bà con gái giữ giàng nết na
Phòng khi nó bỏ tay ra
Nín đi thì dại nói ra mang điều
Ở nhà cha mẹ mến yêu
Lấy chồng gánh lấy mọi điều xót xa
Đầu con, đầu vợ,
Đứa lớn, đứa bé, đứa bế, đứa nằm,
Đứa lên một, đứa lên ba, đứa lên năm, đứa lên bảy.
Tao biểu mày quảy, mày không quảy,
Mày để tao quảy về cái đất Phú Ơn, (Phú Yên).
Nặng nề gánh vác giang sơn,
Đầu con, đầu vợ, cái đất Phú Ơn ta lại về.
Nhìn trông đỉnh núi tứ bề .
Cành mai chớm nở, ta về xứ ta!
Đã sinh ra giống ở đời
Trai thì trung hiếu đôi vai cho tròn
Gái thì trinh tĩnh lòng son
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai
Trai lành gái tốt ra ngoài
Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên
Ở sao cho được lòng người
Ở hẹp người cười ở rộng người chê
Chê là chê mất nề mất nắp
Cao chê ngỏng thấp chê lùn
Béo chê béo trục béo tròn
Gầy chê xương sống xương sườn bầy ra
Xa nhau một năm rưỡi hay là hai năm
Nhớ đau trong bụng ngằm ngằm
Ngồi đau giận bỏ đi nằm cũng đau
Cùng quày bước trái ra ngõ sau
Thấy đồng điền quạnh quẽ một màu trời không
Thấy cửa nhà trời biển núi sông
Chim bay én liệng người không thấy người
Hai hàng huyết lụy tràn ngươi
Nhớ ai lỡ khóc lỡ cười cho ai
Hình thù diện mạo mảnh mai
Đề không phải bạn nước mắt láng lai khóc ròng.
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước
Giáp Thân đã mãn
Ất Dậu tấn lai
Chánh ngoạt sơ khai
Bình yên phước thọ
Nhựt nguyệt soi tỏ
Nam chiếu phúc bồn
Tục danh Hóc Môn
Xứ Bình Long huyện
Hà do khởi chuyện?
Hà sự hàm mai?
Tích ác bởi ai?
Giết quan rửa hận
Nhứt nhơn bất tận
Bá tánh thọ ương
Chẳng nhớ câu “bất cảm hủy thương”
Lại quên chữ “thời thìn vị đáo”
Người sang trọng vô nhơn vô đạo
Muốn đặng mình ích kỷ hại nhơn
Dân Hóc Môn ăn oán uống hờn
Bình Long huyện tha nha thiết xỉ
Tân trào dầu chẳng nghĩ
Có giết sự cũng đành
Giết một người đặng cứu dân lành
Sách có chữ “hại nhơn nhơn hại”
Gẫm đốc phủ giết đà thậm phải
Khai lục tuần địch thể với vua
Theo tân trào phá miễu đốt chùa
Thuở cựu chúa làm Cai Chánh Tổng
Ở một ngày một lộng
Lầu ba từng lại có vọng cung
Nhựt nhựt thường chuông đổ trống rung
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện đem lòng chẳng tưởng
Ép lấy dầu nạp thiểu thâu đa
Tục danh chàng là Đốc Phủ Ca
Cập thân tử Phủ Luông mĩ hiệu
Bởi bội quốc hồn phi yểu yểu
Vì phi quân phách quá xa ngàn
Phi ân đã đáng tội chàng
Giết một gã mà răn muôn chúng
Vật phi nghĩa người ngay bất dụng
Nhơn phi ân kẻ chánh mạc giao
Người ở đời như giọt nước sóng xao
Gẫm sự thế như ngọn đèn trước gió
Xưa đạo Phật, lòng đà đành bỏ
Mộ Di Du tấc dạ yêu cầu
Bị tử hình đức Chúa đi đâu?
Cầm thánh giá sao không cứu khổ?
Chẳng qua thiên số
Rước mẫu tử ư thiên đàng
Theo Di Du mình thác chẳng oan
Phải đạo Phật đao tầm vạn đoạn
Nhựt trình đặt đọc chơi cho hãn
Sự bất khả lậu ngôn
Tuy là mình ăn ở tại đồn
Còn sợ nỗi di thần lăng nịnh
Tham biện quan bất định
Tống trát ra cho xã với làng
Gậy tầm vông mõ đánh vai mang
Qua giờ Dậu tự nơi yếu lộ
Chức cựu tân bất khả thệ tề
Năm canh chầy giấc ngủ đã mê
Trở lộn về nỗi sưu với thuế
Qua năm Dậu gẫm âu quá tệ
Dân bần hàn như khúc gỗ tròn
Tưởng có người quá hải vượt non
Ra giúp nước cứu dân thuỷ hoả
Người sang trọng vô ơn, án tả:
Đã quên câu thuỷ thổ quốc vương
Mười tám thôn ai dám trở đương
Hàn nhơn đáo thâu sanh thát tử
Người hữu học, quên câu “thiện ác đáo đầu”
Nhơn tham tài thác tại bao lâu
Điểu tham thực tắc vong mấy khắc
Dân Hóc Môn đau tầm ruột thắt
Huyện Bình Long tợ muối xát lòng
Chữ phu cừu chuyện ấy tưởng xong
Câu tử đạo tu đường ái nhựt
Chớ ỷ cao qườn lớn chức
Ra chăn dân trở lại hại dân
Giết một gã phi ân
Mà cứu dân đồ thán
Phật còn mang tám nạn
Huống chi người sao khỏi tai ba
Huyện Bình Long bất luận trẻ già
Nạp bắt hết giải qua tòa bố
Trời sanh dân vắn cổ
Dẫu có kêu, kêu chẳng thấu trời
Việc tân trào khảo đã hết hơi
Câu tích ác có câu phùng ác
Cư vương thổ sống thời gởi nạc
Tá vương thần thác lại gởi xương
Nhựt trình đặt đặng cho biết chữ phi thường
Ít người biết suy kim nghiệm cổ
(Vè giết đốc phủ Ca)
Con cò mày đậu cành tre
Thằng Tây bắn súng cò què một chân
Đến mai ra chợ Đồng Xuân
Chú khách mới hỏi sao chân cò què
Cò rằng cò đậu cành tre
Thằng Tây bắn phải cò què một chân.
Nghìn thu gặp hội thái bình
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long
Phố ngoài bao bọc thành trong
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng
Ba mươi sáu mặt phố phường
Hàng Giày, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào
Người đài các, kẻ thanh tao
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên
Trên đồn cờ kéo dưới thuyền buồm giăng
Phong quang lịch sự đâu bằng
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe
Hàng Vôi sang phố Hàng Bè
Qua tòa Thương Chính trở về Đồng Xuân
Trải qua Hàng Giấy dần dần
Cung đàn nhịp phách nên xuân bốn mùa
Cầu Đông vang tiếng chợ Chùa
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương
Mặt ngoài có phố Hàng Đường
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Chum
Tiếng Ngô, tiếng Nhắng um um
Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài
Khoan khoan chân trở gót hài
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi hàng Đồng
Biết bao của báu lạ lùng
Kìa đồ bát bửu, nọ lồng ấp hương
Hàng Bừa, Hàng Cuốc ngổn ngang
Trở về Hàng Cót dạo sang Hàng Gà
Bát ngô, Hàng Sắt xem qua
Hàng Vải, Hàng Thiếc lại ra Hàng Hòm
ở đâu nghe tiếng om om?
Trống chầu rạp hát thòm thòm vui thay
Hàng Da, Hàng Nón ai bày
Bên kia Hàng Điếu, bên này Hàng Bông
Ngã tư Cấm Chỉ đứng trông
Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng rong Hàng Tàn
Đoái xem phong cảnh bàn hoàn
Bút hoa dở viết chép bàn mấy câu.
Trải qua một cuộc bể dâu
Nào người đế bá, công hầu là ai?
Gần xa nô nức tưng bừng,
Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên.
Lầu chuông, gác trống đôi bên
Trông ra chợ Mới, Tràng tiền kinh đô.
Khen ai khéo vẽ họa đồ,
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ Hoàn Gươm.
Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân
Nước xanh như tàu lá
Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn
Thấy phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau.
Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông.
Thấy nước xanh như tàu lá,
Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn ,
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Ðào sông Câu Nhí, tìm vàng Bông Miêu ,
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi Thầy, Mẹ, sớm chiều cũng có Anh .
Đứng bên ni Hàn
Ngó bên tê Hà Thân
Nước xanh như tàu lá
Đứng bên tê Hà Thân
Ngó về Hàn, phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Cầu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn lòng ai đỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau
Ban mai ra đứng xem mây
Mây rủ thảm đầu non mượt mượt
Ban chiều ra đứng trông nước
Nước chảy tới cửa biển thênh thênh
Nghĩ tình mà quá vô tình
Hành vân lưu thuỷ không biết bạn mình vào đâu
Kiếm tìm trên bực dưới sâu
Chốn Đông Ngô vắng mặt cảnh Tần lầu biệt ly
Non thề biên hẹn như in
Người thương đi mất dễ kiếm tìm người thương?