Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Quảng Nam: Miền đất khai sinh và truyền bá chữ Quốc ngữ

Châu Yến Loan

Đầu thế kỷ XVII, các Giáo sĩ Tây phương đến truyền đạo ở xứ Đàng Trong, để nhanh chóng thu phục con chiên họ nỗ lực học tiếng Việt, dùng mẫu tự La tinh để ghi âm tiếng bản xứ, từ đó tiến tới việc sáng chế chữ Quốc ngữ.

Người đầu tiên có thể truyền giáo bằng tiếng Việt là Giáo sĩ Francisco de Pina, ông chính là người có công đầu trong công cuộc đặt nền tảng cho việc h́nh thành chữ Quốc ngữ. Suốt gần ba trăm năm, chữ Quốc ngữ chỉ được lưu hành trong phạm vi nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Măi đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp mới áp đặt đưa chữ Quốc ngữ vào lănh vực hành chánh, biến thứ chữ này thành công cụ phục vụ chế độ cai trị, do đó không được nhân dân đồng t́nh đón nhận. Những năm đầu thế kỷ XX, Phong trào Duy Tân phát xuất từ Quảng Nam, nhận thức được giá trị hữu ích của chữ Quốc ngữ như là một khí cụ khai dân trí giúp nhân dân tiến nhanh trên đường giải phóng dân tộc khỏi cảnh nô lệ, đă thổi vào chữ Quốc ngữ cái hồn dân tộc, ra sức cổ động người người gắng công học chữ Quốc ngữ. Quảng Nam nhờ vậy có vinh hạnh làm cái nôi khai sinh chữ Quốc ngữ lại thêm cái vinh dự mở đường truyền bá chữ Quốc ngữ.

I. QUẢNG NAM - NƠI KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ:

1. Hoàn cảnh và nguyên nhân sáng chế chữ Quốc ngữ:

Dưới thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và Chúa Săi Nguyễn Phước Nguyên, cảng thị Hội An càng ngày càng phát triển, trở thành trung tâm buôn bán sầm uất bậc nhất của xứ Đàng Trong. Thuyền buôn các nước tấp nập cập bến, nhiều nhất là Trung Hoa, Nhật Bản, Hoà Lan và Bồ Đồ Nha. Nói về Hội An thời ấy Cristoforo Borri đă ghi nhận: "Thành phố này gọi là Faifo, một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có quan cai trị riêng và sống theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ và phong tục của người Tàu và người Nhật cũng vậy". (1, tr 92)

Mặc dầu các thuyền buôn Bồ Đào Nha đến buôn bán với Hội An rất sớm, nhưng các giáo sĩ vẫn chưa có cơ hội đến truyền đạo ở xứ Đàng Trong. Cho đến năm 1613, Nhật Bản ban hành lệnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ ,th́ những người được đào tạo để gởi đi Nhật Bản phải chuyển hướng sang Việt Nam. Ngày 6/1/1615, phái đoàn Buzomi đáp tàu buôn Bồ Đào Nha từ Macao đến Cửa Hàn (Đà Nẵng). Sau đó, mấy tháng mới đến ở Hội An (2,tr 20). Họ chọn Hội An để truyền giáo v́ nơi đây đă có sẵn những con chiên người Nhật cần đến họ và sẵn sàng giúp đỡ họ làm thông ngôn để giao tiếp với người Việt. Khi giảng đạo nếu dùng ngôn ngữ bản xứ trực tiếp đối thoại th́ lời thuyết giáo sẽ sinh động, có hồn, dễ đi sâu vào ḷng người; c̣n nếu phải dùng người phiên dịch th́ hiệu quả không cao. V́ vậy, các giáo sĩ phải gấp rút học tiếng Việt. Họ dùng bộ chữ cái La Tinh để ghi âm tiếng bản xứ giúp cho người mới học dễ nhớ, dễ sử dụng hơn, từ đó chữ Quốc ngữ được ra đời.

Chỉ cần nh́n vào cách ghi âm địa danh Dinh Chiêm là ta có thể h́nh dung được tiến tŕnh tạo lập chữ Quốc ngữ. Đây là địa danh được phiên âm sớm nhất ở dạng chữ Quốc ngữ sơ khai. Lúc đầu chưa ư thức được tiếng Việt là tiếng đơn âm nên họ không viết theo lối cách ngữ mà lại viết dính nhau, họ cũng chưa phân biệt được các dấu giọng nên viết không có dấu: Joăo Roiz viết là Cacham vào năm 1621, cũng năm này, tuy Gaspar Luis chưa đến Việt Nam nhưng cũng viết là Cacham và sau khi đến xứ Đàng Trong năm 1626 lại viết Dinh Cham. Trong bản tường tŕnh ngày 1/1/1626 giáo sĩ Antonio De Fontes cũng ghi là Dinh Cham nhưng cũng có khi viết là Dĩgcham. Riêng Cristoforo Borri th́ ghi theo lối Ư nên viết là Cacciam (1621). Những trở ngại này nhanh chóng được khắc phục, chỉ mười năm sau đó, năm 1632 Gaspar D’Amaral đă có thể viết ngay "Kẻ Chàm" như cách ta viết ngày nay. Mỗi giáo sĩ có một cách ghi, chứng tỏ chữ Quốc ngữ được tạo thành do công sức của cả một tập thể chứ chẳng riêng ai. Tuy thế, người đóng góp sớm nhất và quan trọng nhất là Francisco De Pina.

2. Pina - người mở đường cho công tŕnh La Tinh hoá tiếng Việt

Pina, người Bồ Đào Nha, sinh tại thành phố Guarda năm 1585 (hay 1586 theo Roland Jacques hoặc 1588 theo Hồng Nhuệ). Ông vào Ḍng Tên từ năm 19 tuổi, học Thần học, tiếng Nhật và các môn khoa học, nghệ thuật nhiều năm tại Macao trước khi sang Việt Nam năm 1617. Ngay từ khi đến Quảng Nam, Pina đă tự nguyện lao vào việc học tập, nghiên cứu tiếng Việt. Trong thư gửi cho Tổng giám mục, giáo sĩ Gaspar Luis đă viết: "Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên miệt mài học tiếng nói" (3, tr40). Chỉ trong một thời gian ngắn, Pina đă nắm bắt được cốt lơi của tiếng Việt. Ông đă nhanh chóng phát hiện ra "Tiếng nói này là một tiếng nói có thanh âm, giống như một xướng âm pháp và trước hết là phải biết xướng âm nó đă, sau đó người ta mới học các chữ". (4, tr 36)

Không nắm được cốt lơi này th́ không thể học được tiếng Việt. Chính v́ không phân biệt được các thanh và dấu thanh nên Linh mục Manoel Fernandez - Cha bề trên của trú sở Hội An - dầu rất cố gắng học nói tiếng Việt, mỗi ngày hai lần được người Việt Nam luyện cách phát âm ṛng ră một năm mà cha cứ nhầm lẫn giữa cà và cá chẳng nói được mấy từ chẳng phải, ông phải khiến bổn đạo Hội An, Thanh Chiêm không hiểu ông nói ǵ.

Pina không những nói thông thạo tiếng Việt, giảng đạo bằng tiếng Việt mà ông c̣n soạn một tập chính tả và dấu thanh tiếng Việt đồng thời bắt tay vào việc soạn ngữ pháp. Ông đă thu thập được nhiều truyện và các văn bản thích hợp cho việc trích dẫn những câu mẫu về ngữ pháp. Những điều đó đă chứng tỏ Pina mới là người tiên phong sáng tạo chữ quốc ngữ chứ không phải là Alexandre De Rhodes như người ta vẫn tưởng lâu nay. Mặc dầu Rhodes là người đầu tiên cho in những tài liệu thành văn về chữ quốc ngữ: Từ điển Việt-Bồ-La, Phép giảng tám ngày vào năm 1651 nhưng ông chỉ là người công bố, người phổ biến, người đóng góp rất nhiều cho việc hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ chứ không phải là người khởi xướng đúng như ông đă xác nhận trong Từ điển Việt-Bồ-La: "...ngay từ đầu tôi đă học với cha Francisco De Pina, người Bồ Đào, thuộc Hội Ḍng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn..." (5, tr 3). Chính nhờ những nỗ lực không hề biết mệt mỏi của A.De Rhodes mà ngày nay chúng ta vẫn c̣n được chiêm ngưỡng những tài liệu vô giá về chữ Quốc ngữ trong buổi b́nh minh của nó.

Điều thuận lợi cho A.De Rhodes khi học tiếng Việt là ông khỏi phải trải qua những ḍ dẫm ban đầu mà được thừa hưởng tất cả những ǵ Pina đă khổ công tích góp được về cách ghi âm tiếng Việt theo mẫu tự La tinh. Rhodes là người hết sức trung thực và ṣng phẳng khi công khai thừa nhận vai tṛ và vị trí của ḿnh trong việc chế tác chữ Quốc ngữ. Cũng trong Từ điển Việt-Bồ-La ông nói rất rơ: "Tôi cũng sử dụng những công tŕnh của nhiều cha khác cùng một Hội Ḍng nhất là của cha Gaspar d’ Amaral và cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đă biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ Đào, nhưng cả hai ông đều đă chết sớm" (5,tr 3). Theo lời Rhodes, ta có thể giả định một bảng xếp loại các bậc tổ sư có công sáng chế chữ Quốc ngữ: Pina thuộc thế hệ thứ nhất, A.De Rhodes thuộc thế hệ thứ hai. Nhưng khi công bố các công tŕnh của ḿnh Rhodes lại thuộc thế hệ thứ năm, v́ ông đă tận dụng những thành tựu của người đi trước ông như Pina lẫn người đi sau ông như Gaspar d’Amaral,Antonio Barbosa:

1) Thế hệ thứ nhất : Francisco De Pina - đến VN năm 1617
2) Thế hệ thứ hai : Alexandre De Rhodes - đến VN năm 1624
3) Thế hệ thứ ba : Gaspar D’Amaral - đến VN năm 1629
4) Thế hệ thứ tư : Antonio Barbosa - đến VN năm1636
5) Thế hệ thứ năm : Alexandre De Rhodes - xuất bản sách năm 1651

Những đóng góp lớn lao của Alexandre De Rhodes vào cuộc cách mạng chữ viết làm vinh danh cho người thầy đă từng dày công đặt nền móng cho việc sáng tạo chữ Quốc ngữ: Francisco De Pina.

3. Dinh trấn Thanh Chiêm - cái nôi của chữ Quốc ngữ

Nhờ sớm thông thạo tiếng Việt, Pina thường xuyên đi lại Thanh Chiêm để làm nhiệm vụ quan hệ với Dinh trấn, đến khi trú sở Thanh Chiêm thành lập năm 1625 ông được cử làm cha bề trên cai quản nơi đó. Trú sở này tuy theo giáo luật ra đời sau nhưng lại giữ một vai tṛ khá quan trọng v́ ở ngay thủ phủ của Dinh Quảng Nam được xem như triều đ́nh thứ hai của xứ Đàng Trong, do Hoàng tử Nguyễn Phước Kỳ, con cả của chúa Săi Nguyễn Phước Nguyên trấn giữ. Đây không chỉ là nơi đơn thuần chinh phục con chiên mà c̣n là nơi tranh thủ ngoại giao để tạo mọi điều kiện dễ dàng cho việc truyền giáo nên chỉ có Pina là thích hợp nhất để cai quản nơi này. Cũng không phải sau khi trú sở được thành lập Pina mới đến Dinh Chiêm mà trước đó ông gần như có mặt thường xuyên tại đây.

Ở Dinh trấn Thanh Chiêm, Pina đă tạo lập được mối quan hệ mật thiết với Hoàng tử Kỳ .Mặc dầu không thuyết phục được Hoàng tử chịu lễ thánh tẩy nhưng cũng tạo được niềm tin nơi vị trấn thủ. Hoàng tử rất có thịnh t́nh với Kitô giáo. Pina thường đến thăm quan Trấn thủ, cũng có khi quan Trấn thủ đến thăm Pina cùng với một số Nho sĩ để nghe Pina giảng về giáo lư. Ở đây, Pina cũng làm được nhiều việc ích lợi cho công cuộc truyền giáo v́ đă chinh phục được một số người quyền quí có thế giá ở trong Dinh. Tại nhà một bà tên là Gioanna, Pina đă dạy giáo lư bằng tiếng bản xứ khiến người nghe có thể cảm nhận đích thực suối nguồn của đạo. Gaspar Luis c̣n cho biết thêm, Pina được triều đ́nh kính trọng nhờ những hiểu biết về toán học và thiên văn của ông. Ông đă nhận huấn luyện cho những nhà Chiêm tinh của Hoàng tử Kỳ thuật tính thiên văn. Nhưng công tŕnh hệ trọng hơn hết mà Pina đă làm được ở Dinh trấn Thanh Chiêm là công cuộc sáng tạo chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La tinh. Để làm được việc khó khăn này, ngoài những cố gắng vượt bậc của ông c̣n cần có sự hỗ trợ của những người Việt. Trước hết là các thanh niên giáo dân ở các nhà đạo, nhà thờ, trong số đó Pina đă nhắc đến một người tên André trong bức thư viết dở dang tại Hội An vào năm 1623. "Trong một nhà đạo cần ít nhất có ba người giúp chúng ta các dịch vụ vặt vănh hàng ngày, đối với họ cần dành thời gian để học chữ,cả người của họ lẫn người của chúng ta... Những năm đầu tôi đă dạy cho một người tên là André, sau đó cậu ta ở lại với cha Marquez như người phiên dịch của cha và về sau cha bề trên đă dùng cậu ta với chức năng như vậy" (4, tr 178). André và những thanh niên giáo dân làm phiên dịch, biết tiếng Bồ Đào Nha nên có thể giúp đỡ ông rất nhiều khi nghiên cứu tiếng Việt. Alexandre De Rhodes khi đến Thanh Chiêm để học tiếng Việt, ngoài việc lănh giáo ở Pina, cũng ghi lại những nỗ lực đóng góp của người bản xứ đă giúp ông nhanh chóng gặt hái kết quả trong học tập: "Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đă dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi th́ chưa biết tiếng cậu, thế nhưng cậu có trí thông minh biết được những điều tôi muốn nói. Và thực tế cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đă làm thầy giảng giúp các cha" (5.tr 55,56). Nhưng quan trọng hơn vẫn là các trí thức bản xứ. Đó là các Nho sĩ, các nhà sư, các quan lại v.v..., những tinh hoa của xứ Đàng Trong từ Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá đến B́nh Định, Phú Yên, khắp nơi đă hội tụ về đây. Họ là những cộng tác viên đắc lực của Pina trong công tŕnh ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh. Làm được việc khó khăn này Pina xác nhận không đâu lí tưởng hơn Dinh Chiêm, cơ quan đầu năo của xứ Quảng Nam, v́ chỉ có nơi này mới qui tụ nhiều người học thức cần thiết cho công tŕnh nghiên cứu tiếng bản xứ của ông. Hội An và Nước Mặn (Qui Nhơn) không thể đáp ứng yêu cầu này. Mặc dầu Hội An là nơi đô hội sầm uất nhưng chỉ có lợi cho công việc thương măi hơn là cho việc nghiên cứu ngôn ngữ. Người ta không thể t́m thấy lời giải đáp cho vấn đề ở những thương nhân người Tàu, người Nhật mà chỉ có ở những văn nhân nơi thủ phủ.

Cuối năm 1624, Alexandre De Rhodes được cử đến Đàng Trong. Vừa đến nơi ông đă cùng giáo sĩ Antonio De Fontes về ngay Thanh Chiêm làm phụ giảng cho Pina, nhưng việc khẩn thiết hơn hết là để học tiếng Việt với bậc thầy "giảng giáo lư không cần thông dịch".

Trú sở Thanh Chiêm như thế có thể xem là trường dạy chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Francisco De Pina từ chỗ đem nhiệt tâm phụng sự chúa Kitô đă trở thành cha đẻ chữ Quốc ngữ. Chữ mà ông chỉ khiêm tốn xem như một công cụ, một phương tiện mầu nhiệm để chinh phục người bản xứ, đưa họ trở lại đạo, nhưng ông đă đem hết nhiệt huyết và tuổi thanh xuân để miệt mài nghiên cứu, lại trở thành văn tự chính thức của một quốc gia, trở thành một công cụ tuyệt hảo cho Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập vào cộng đồng quốc tế.

Pina, Alexandre De Rhodes đă học tập, nghiên cứu, làm việc nhiều năm ở Dinh trấn Thanh Chiêm để tạo nên chữ Quốc ngữ. Do đó Dinh trấn Thanh Chiêm nói riêng và Quảng Nam nói chung chính là miền đất đă có vinh hạnh làm nơi chào đời của chữ Quốc ngữ.

II. QUẢNG NAM - NƠI TRUYỀN BÁ CHỮ QUỐC NGỮ

1. Mục đích phổ biến chữ quốc ngữ

Cuối thế kỷ XIX các phong trào vũ trang Cần vương hoàn toàn thất bại, thực dân Pháp đă thiết lập nền đô hộ trên toàn cơi Việt Nam, Nho học bước vào con đường suy tàn, không c̣n đáp ứng được những yêu cầu của đất nước. Trước t́nh đó, đầu thế kỷ XX phong trào Duy Tân do các cụ Phan Châu Trinh, Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lănh đạo với một đường lối chủ trương mới mẽ, tiến bộ, khởi lên từ Quảng Nam đă làm nô nức ḷng người, khắp nơi một phong khí mới ào ào dâng lên. Mục tiêu "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" trở thành động lực thúc đẩy nhân dân tập hợp dưới bóng cờ của phong trào, trong đó mục tiêu khai dân trí được đặt lên hàng đầu. Muốn tiến bộ, muốn chống lại kẻ thù phải làm cho dân khôn ra, phải cắt cái ngu, cái dại đă đưa dân tộc vào ṿng bị trị. Công cụ để tiến hành sứ mệnh đó không ǵ tiện dụng hơn chữ Quốc ngữ.

Mặc dầu lúc bấy giờ chữ Quốc ngữ c̣n có nhiều nhược điểm, nhưng so với chữ nôm th́ lại đơn giản, có tính khoa học hơn nhiều, do đó thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Duy tân và nâng cao dân trí, v́ vậy các nhà lănh đạo phong trào bèn ra sức hô hào học chữ Quốc ngữ:

Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước,
Phải đem ra tính trước dân ta,

(Khuyến học - Trần Quí Cáp)

Ta muốn vận dụng chữ Quốc ngữ như một khí cụ cứu nước, thực dân Pháp lại muốn dùng chữ Quốc ngữ như một công cụ để thống trị đất nước ta ,nô dịch dân ta.

2. Pháp truyền bá chữ Quốc Ngữ để làm công cụ nô dịch:

Ngay sau khi chiếm Nam kỳ (1867), Pháp băi bỏ các ḱ thi chữ Hán và thay vào đó một nền giáo dục Pháp Việt. Họ đă thấy ngay vai tṛ lợi hại của chữ Quốc ngữ nên quyết tâm đào tạo những người biết chữ Pháp, chữ Quốc ngữ để làm tay sai cho họ trong việc cai trị. Nhiều nghị định liên tiếp được ban hành nhằm mục đích phổ biến chữ Quốc ngữ, dùng nó thay thế chữ Hán và chữ Nôm:

Ngày 14/11/1874 ,Thiếu tướng Hải quân Krantz giữ chức Thống soái Nam kỳ, đă kư nghị định mở trường trung học Chasse Loup Laubat ở Sài G̣n vừa dạy tiếng Pháp vừa dạy chữ Quốc ngữ cho con em người Pháp đang cai trị tại Nam kỳ và con em các quan lại làm việc với họ.

Ngày 6/4/1878, Thống đốc Nam kỳ ra nghị định số 82 bắt buộc các công văn, thư từ phải viết bằng chữ Quốc ngữ thay v́ chữ Hán hay chữ Nôm.

Ngày17/1/1879, Thống đốc Nam kỳ là bá tước Lafont kư nghị định mở trường Trung học Mỹ Tho.

Ngày 17/3/1879, chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập Sở Học chánh Nam kỳ và đặt chương tŕnh giáo dục Pháp Việt đầu tiên ở Nam kỳ.

Ngày 18/11/1896, Toàn quyền Đông Dương A. Rousseau kí nghị định cho phép mở trường Quốc Học Huế.

Ngày 27/4/1904, thực dân Pháp ra nghị định thiết lập chương tŕnh giáo dục hệ Pháp-Việt ở Bắc kỳ.

Năm 1906, Toàn quyền Paul Beau ra nghị định bắt dân các xă lập trường tiểu học dạy chữ Quốc ngữ, chữ Tây...

Những nỗ lực phổ biến chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp nhằm mục đích loại bỏ nền văn hoá Hán Nôm từ hàng ngàn năm đă ăn sâu vào cội rễ tư tưởng người Việt để thay vào đó là nền văn hoá Pháp, hầu củng cố chế độ thực dân, tất yếu phải gặp sức kháng cự của nhân dân yêu nước. V́ vậy, dù Pháp ra lệnh lập xă học, dân chúng vẫn không chịu học chữ Quốc ngữ do họ đề xướng.

3. Phong trào Duy Tân truyền bá Chữ Quốc ngữ để làm công cụ cứu nước

Đối với các nhà cách mạng, chữ Quốc ngữ là công cụ hữu hiệu để truyền bá chủ nghĩa Duy Tân: "Quyết đem học mới thay nô kiếp", là phương tiện để khai dân trí:

Trước hết phải học ngay Quốc ngữ,
Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác nhau,
Chữ ta, ta đă thuộc làu,
Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài

(Sẵn cơ sở để khai tâm trí - Đông kinh nghĩa thục)

Cùng một phương tiện nhưng dùng với hai mục đích trái ngược nhau, phải nói sao cho dân hiểu, dân làm, tránh hiểu sai, hiểu lầm, không để cho kẻ địch lợi dụng, quả là một trận chiến cam go. Việc dạy chữ Quốc ngữ trong các trường Duy Tân buổi đầu không dễ dàng v́ gặp phải sự chống đối của lớp người bảo thủ. Nhiều người đă kiên quyết không cho con em đi học thứ chữ "của Tây,của cố đạo" nhưng nhờ ḷng kiên tŕ, nhiệt t́nh yêu nước, các giáo viên tân học đă tạo được sự hiểu biết cũng như ḷng tin vào tiền đồ của dân tộc, càng ngày số người theo học càng đông. Phong trào học chữ Quốc ngữ đă được nhân dân hưởng ứng nồng nhiệt, tại Quảng Nam chỉ trong ṿng năm, sáu tháng 40 trường tân học đă được dựng lên để dạy chữ Quốc ngữ, truyền bá cái học mới. Từ chỗ bài Tây, tả đạo, cái ǵ của thực dân cũng ghét, như tinh thần cụ Đồ Chiểu, xà pḥng không dùng, dầu Tây không thắp, huống ǵ chữ Quốc ngữ là đại sự của quốc gia lại do kẻ xâm lược tạo ra. Làm cho dân ư thức đó là nguồn lợi của nước nhà, đưa chữ Quốc ngữ giữ vai tṛ có quan hệ sinh tử đối với vận mệnh đất nước, khiến cho họ nhận ra cái hồn của dân tộc "chữ Quốc ngữ là hồn trong nước" quả là kỳ công của các nhà lănh đạo phong trào Duy Tân. Không chỉ dạy chữ Quốc ngữ cho dân ta, phong trào c̣n dùng chữ Quốc ngữ để dịch các sách Âu, Mỹ,Trung Quốc hầu phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật, triết học, kinh tế... để mở mang dân trí, ư thức dân quyền, đưa đồng bào tiến bước trên đường Duy Tân, cứu đất nước thoát khỏi ṿng đô hộ của thực dân Pháp:

Sách Âu Mỹ, sách China
Chữ kia ,chữ nọ dịch ra tinh tường
...Một người học muôn người đều biết
Trí ta khôn trăm việc phải hay
Lợi quyền đă nắm trong tay
Có cơ tiến hoá, có ngày văn minh

(Khuyến học - Trần Quí Cáp)

Công cuộc phổ biến chữ Quốc ngữ của phong trào Duy Tân đă được triển khai bằng nhiều hoạt động mạnh mẽ nhất là từ năm 1906 trở đi. Năm 1906, nhân nghị định của Toàn quyền Paul Beau bắt dân các xă lập trường dạy chữ Quốc ngữ, chữ Tây các nhà Duy Tân đă lợi dụng thời cơ đó để hợp pháp hoá chủ trương dạy chữ Quốc ngữ mà trước đây họ phải hoạt động một cách bí mật .Các cụ Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, công khai tổ chức những buổi diễn thuyết cổ động cho tân học gây được những xúc động mạnh mẽ trong hàng ngũ thân hào, nhân sĩ, khiến họ tự nguyện góp công, góp của dựng lên những ngôi trường Duy Tân trong các xóm làng. 40 trường tân học đă mọc lên khắp nơi, có nhiều trường đă gây được ảnh hưởng lớn, uy tín vang khắp tỉnh như trường Phú Lâm, Diên Phong, Phước B́nh, Cẩm Toại.

Phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ bắt đầu từ Quảng Nam sau lan rộng ra cả Trung kỳ, Bắc kỳ. Năm 1907, cụ Phan Châu Trinh ra Hà Nội cùng các thân hào nhân sĩ đất Bắc như các cụ Lương văn Can, Nguyễn Quyền... thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục. Đây là một trường có quy mô tổ chức lớn, có nhiều giáo sư xuất sắc, vang danh khắp nước.

Công cuộc Duy Tân đang được triển khai mạnh mẽ, quần chúng nhiệt t́nh hưởng ứng, nhưng tiếc rằng phong trào hoạt động chẳng được mấy năm th́ đến năm 1908 nhân cuộc biểu t́nh chống sưu thuế của nhân dân Quảng Nam và các tỉnh miền Trung, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, bắt giam các lănh tụ Duy Tân, đày đi Lao Bảo, Côn Lôn, Trần Quí Cáp - nhà cách mạng giáo dục lỗi lạc của phong trào - bị tử h́nh. Các trường tân học bị đóng cửa, giáo viên bị đánh đập, giam cầm. Phong trào tan ră nhưng chữ Quốc ngữ đă gắn sâu vào ḷng dân tộc, cùng nhân dân tiếp tục tiến bước trên đường thắng lợi cho đến khi nước nhà Độc lập đă trở thành thứ chữ chính thức của nước ta.

Từ khi chữ Quốc Ngữ chào đời cho đến khi được nhân dân đón nhận, Quảng Nam có vinh dự làm cái nôi khai sinh chữ Quốc ngữ cũng chính là nơi đầu tiên dấy lên phong trào học chữ Quốc ngữ mang tính đại chún

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Cistoforro Borri - Xứ Đàng Trong năm 1621, bản dịch Hồng Nhuệ & Nguyễn Nghị, TP Hồ Chí Minh, 1997
2. Đỗ Quang Chính - Lịch sử chữ Quốc Ngữ, Ra khơi, 1972
3.
Gaspar Luis - Lettre du Père Gaspar Luis sur la Concincina, dẫn theo L.Cadière, Bulletin des Amis du Vieux Hue, 1931, 3-4
4. Roland jacques - L’oeuvre de quelques Pioniers Portugais dans le... domaine de la linguistique Vietnammienne jusqu’en 1650 INALCO, Paris 1995
5. Alexandre De Rhodes - Tự điển An Nam - Bồ Đồ Nha - La tinh, bản dịch Thanh Lăng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Khoa học xă hội, 1991
6.Alexandre De Rhodes - Hành tŕnh và truyền giáo, Đại kết, UBĐKCG, TP Hồ Chí Minh, 1994
7. Châu Yến Loan - Hiếu Chiêu Hoàng Hậu, Đà Nẵng, 2002
8. Châu Yến Loan - Hội An-Đà Nẵng-Thanh Chiêm miền đất khai sinh chữ Quốc Ngữ, Xưa&Nay, số 94,06/2001, tr8-10
9. Châu Yến Loan - Phong trào Duy Tân với công cuộc phổ biến chữ Quốc ngữ, Văn hoá Quảng Nam, số 41,9-10/2003
10. Châu Yến Loan - Pina ở Thanh Chiêm, Vai tṛ lịch sử Dinh trấn Quảng Nam, Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam, kỷ yếu Hội thảo, 9/2002
11. Nguyễn Văn Xuân - Phong trào Duy Tân, Đà Nẵng, 1995
12. Nguyễn Văn Xuân - Hội An, Đà Nẵng, 1999

Xem Thêm:

Chữ Quốc Ngữ
Trường Tân Học Phú Lâm
Dinh Trấn Thanh Chiêm
Ḍng Tên - Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ

Post ngày: 10/19/17 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17