|   | 
      
      
		-  
 
		 
		
			
				
				
					
						 - Vài cảm nghĩ về t́nh tự dân tộc Miền Nam và Ca Dao
 
					
					 
					
						 Ḥa Đa
					
					
					
						 Kính Tặng Má, 
						tặng Hồng, vợ tôi, 
						người đă ru con bằng ca dao.
					
					
						  
					
					
						 Một trong những thiếu 
						sót trong chương tŕnh học ở Việt Nam từ trước đến nay 
						là sự mất cân đối trong việc giới thiệu đến học sinh 
						những dữ kiện về văn học theo sự phân bố về địa dư. Nói 
						cho rơ hơn, chương tŕnh văn ở bậc trung học nghiêng 
						nặng về những tác giả tác phẩm ở ngoài Bắc và đă bỏ quên 
						những sinh hoạt văn học trong Nam. Không thể chối căi là 
						ở trung học, chúng ta học quá nhiều về Tự Lực Văn Đoàn, 
						về Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo... mà 
						không hề nói ǵ về những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, 
						B́nh Nguyên Lộc...chẳng hạn; chúng ta học quá nhiều về 
						Nam Phong, Đông Dương tạp chí, học Nguyễn văn Vĩnh, Phạm 
						Quỳnh... mà không nhắc ǵ về Gia Định Báo, Phụ Nữ Tân 
						Văn, Phan Khôi... Có thể nói, trong mọi lănh vực về văn 
						học ở chương tŕnh trung học, miền Nam đă bị bỏ quên, 
						khiến cho sau bao nhiêu năm, sự lănh hội về kiến thức 
						trong chúng ta về văn học đă bị thiếu sót.
					
					
						 Ca dao miền Nam cũng 
						chịu chung số phận như thế.
					
					
						 Mặc dù không hề được 
						nhắc đến ở trường học, nhưng ca dao miền Nam vẫn có sức 
						sống của nó. Chẳng những thế nó c̣n được phát triển mạnh 
						và là một sinh hoạt tiềm tàng trong cuộc sống của người 
						b́nh dân, cho dù chúng ta không c̣n thấy những màn ḥ 
						đối đáp trong công việc hàng ngày ở trên đồng ruộng, sân 
						lúa hay trên sông rạch như tiểu thuyết đă mô tả. Nó nằm 
						ngay trên cửa miệng người b́nh dân, họ đọc ra như một 
						phản xạ tự nhiên phù hạp với hoàn cảnh đang xảy ra không 
						chê được.
					
					
						 Chẳng hạn, thấy một 
						chàng trai ở rể bị lợi dụng, miệng đời đă có câu đàm 
						tiếu:
					
				
				
					
						
							
								 - Công anh làm 
								rể đốn rào
 
								Tào lao phất ngọn, chớ nào vợ anh? (1) 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Câu này làm chúng ta 
						nghĩ ngay đến câu tương tự ở ngoài Bắc:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Công anh làm rể 
								chương đài
 
								Một ḿnh ăn hết mười hai vại cà, 
								Giếng đâu th́ dắt anh ra 
								Không th́ anh chết với cà nhà em. 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Hay để trêu chọc sự dan 
						díu ngoài khuôn phép của gia đ́nh và xă hội của một đôi 
						trai gái, chúng ta đă có sẵn câu:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Mùng ba th́ 
								có trăng non,
 
								Anh đi lên xuống có con anh bồng 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Nó cũng nằm ngay trong 
						câu hát ru con của các mẹ, các chị b́nh dân, những câu 
						ca dao cứ tuần tự tuôn ra một cách tự nhiên, không g̣ 
						ép, không sửa soạn, cứ hết câu này đến câu khác, ru trẻ 
						vào giấc ngủ. Nhiều khi họ c̣n dùng để diễn tả, kể lể 
						tâm trạng của họ:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - - Má ơi đừng 
								gả con xa,
 
								Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu. 
							
							
								 - - Ví dầu cầu 
								ván đóng đinh
 
								Cầu tre lắt lẻo gập gh́nh khó đi 
							
							
								 - - Giả đ̣ mua 
								khế bán chanh
 
								Giả đi đ̣i nợ thăm anh đỡ buồn 
							
							
								 - ...
 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Năm 1970, tôi về làm 
						việc tại một tỉnh nhỏ ở đồng bằng Cửu Long nên có dịp 
						tiếp xúc với người b́nh dân, nông dân. Sau 1975, do 
						chính sách của chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ, tôi lại 
						có dịp sống hẳn ở nông thôn, gần gũi với nếp sống b́nh 
						dị, làm quen với cách ứng xử, sinh hoạt của họ. Do đó 
						xin nêu lên vài cảm nhận có tính rất chủ quan về ca dao 
						miền Nam. Tôi không có tham vọng tŕnh bày về ca dao 
						miền Nam như một bài khảo cứu, công việc này xin dành 
						cho những nhà biên khảo hay cho những công tŕnh luận 
						văn cao học, tiến sĩ. Cũng xin nói thêm, v́ sự thuần 
						nhất (một cách tương đối) về âm sắc trong cách nói, sự 
						tương đồng về sinh hoạt, xin được nới rộng yếu tố địa dư
						miền Nam ra đến phần đất tam Phan (Phan Rang, 
						Phan Rí, Phan Thiết) mà do sự phân chia hành chánh, vùng 
						này được xếp vào Trung phần. Và cũng xin nhấn mạnh bài 
						viết chỉ nhằm đóng góp, nêu lên một phần di sản văn hóa 
						bị bỏ quên trong văn học sử, tuyệt nhiên không có ư phân 
						biệt địa phương.
 
					
					
						 - I. Vài nét về sự 
						h́nh thành cư dân Miền Nam
 
					
					
						 - Kể từ sau cuộc hôn nhân 
						Việt -Chiêm giữa Huyền Trân Công Chúa và Chế Mân , nước 
						Việt chúng ta có thêm hai châu Ô, châu Rí (Thế kỷ XIV, 
						XV). Để đối kháng với thế lực thống trị từ phía Bắc, 
						Việt Nam cần phát triển hậu cứ, lập nền tảng kinh tế để 
						phát triển tiềm năng kháng cự với Tàu, nên đă bắt đầu 
						chú ư đến việc phát triển về địa lư vào phương Nam. 
						Nhưng phải chờ đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận 
						Hoá (năm 1558) và tuyên xưng là Chúa Nguyễn (năm 1600), 
						hướng phát triển vào Nam mới được phát triển một cách có 
						qui củ để tạo thành một thế lực ngang ngửa với chúa 
						Trịnh ở miền Bắc. Với chính sách tầm ăn dâu, người Việt 
						cứ bành trướng dần vào Nam. Những người tiền phong là 
						những lính thú khai hoang lập ấp, họ là những người vừa 
						chiến đấu vừa sản xuất. Họ cũng là những lưu dân từ vùng 
						Thanh Nghệ, t́m đến phần đất của chúa Nguyễn để sinh 
						sống, người có tài như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, 
						Nguyễn Hữu Cảnh... th́ được trọng dụng, người b́nh dân 
						th́ được đưa vào dần trong Nam theo chân các tập đoàn 
						quân sự khai hoang lập ấp. Họ cũng là những tù, hàng 
						binh của Trịnh do Nguyễn bắt được, đưa sâu vào Nam để dễ 
						bề quản thúc, kiểm soát... Cũng có những cuộc t́nh duyên 
						có tính chính trị nhằm mở rộng lănh thổ như cuộc t́nh 
						duyên của công chúa Ngọc Hoan (hay Ngọc Vạn?) với vua 
						Miên Chey Chetty dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa 
						Săi), bà hoàng người Việt này đă mang theo nhiều người 
						Việt vào sinh sống ở vùng đất Chân Lạp. Sang thế kỷ 
						XVII, các di thần nhà Minh không chấp nhận Thanh Triều 
						đă đem bộ hạ và gia quyến vào xin đầu phục Chúa Nguyễn, 
						Chúa Hiền cũng cho vào định cư vùng Đồng Nai, Biên Ḥa 
						(Trần Thắng Tài), Mỹ Tho (Dương Ngạn Địch, TrầnThượng 
						Xuyên) và sau đó (2) vùng đất Hà Tiên do Mạc Cửu mộ dân 
						khai thác được dâng cho Chúa Nguyễn.
 
					
					
						 - Khi Gia Long lên ngôi, 
						một trong những chính sách quan trọng ở miền Nam là ổn 
						định đời sống về kinh tế, miễn thuế cho cư dân thuộc 
						vùng đă giúp nhà vua khi c̣n bôn đào trong thời chiến 
						tranh với Tây Sơn. Sau Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị 
						đă cho phát triển những đơn vị bán quân sự, cho đào kinh 
						(3) khuyến khích việc mộ dân lập làng, tiếp tục miễn 
						giảm thuế cho những vùng vừa khai thác nên dân số ngày 
						càng đông . Thành phần cư dân h́nh thành trong vùng gồm 
						phần đông là binh lính, di dân Việt từ Thuận-Quảng 
						chuyên làm ruộng ít học, sau đó là người Miên, sống rải 
						rác trong các sốc (làng Miên) trên những vùng đất cao 
						ráo và người Hoa làm rẫy hay buôn bán, tập trung cạnh 
						các con sông lớn, tạo thành những thị tứ thịnh vượng. 
						Phát triển của vùng này chỉ được chú trọng vào quân sự 
						và kinh tế, c̣n văn hóa chỉ phát triển có hệ thống về 
						phía tôn giáo ở các miếu, đ́nh, chùa.
 
					
					
						 - Hơn thế kỷ sau, Pháp 
						xâm chiếm Việt Nam, chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, miền Nam gần 
						như mất hẳn ảnh hưởng chính quyền trung ương, văn hóa 
						miền Nam cũng theo trào lưu đó mà biến đổi. Nền học cũ 
						bị băi bỏ, cái học mới chỉ để phục vụ cho chế độ thực 
						dân. Đại đa số người dân miền Nam thiếu học, lại mất đi 
						nguồn bổ sung nhân lực chính là các binh lính từ các 
						phiên trấn thuộc chính quyền trung ương, sinh hoạt văn 
						hóa thông thường và dễ dăi của người b́nh dân là hát ḥ 
						với nhau.
 
					
					
						 - Với sự hinh thành về 
						thành phần cư dân cho vùng đất miền Nam như thế, Sự giao 
						lưu về văn hóa giữa ba nhóm cư dân nói trên (Việt, Miên, 
						Hoa) nhất định phải xảy ra và v́ vậy, chúng ta không thể 
						không để ư đến tính đa văn hóa sẽ phát triển trên vùng 
						đất này và có thể giải thích được tại sao văn hóa miền 
						Nam không bị g̣ bó vào khuôn mẫu và có tính cách thuần 
						nhất như ở miền Bắc. Người b́nh dân, lính thú... thiếu 
						học, đơn giản, sống tương đối rải rác sẽ khó có thể có 
						những sinh hoạt văn hóa dựa trên chữ viết, sân khấu... 
						mà sinh hoạt truyền miệng, phóng khoáng hơn, dễ dăi hơn 
						được phát tirển mạnh. Có điều nhận xét khá lư thú là âm 
						sắc trong ngôn ngữ càng vào sâu trong Nam càng nhẹ dần, 
						nhưng vốn từ vựng từ phía nam Hải Vân vẫn c̣n được duy 
						tŕ thống nhất và được phát triển thêm, làm giàu thêm 
						trong suốt chiều dài phát triển lănh thổ về phía nam (4) 
						. Tinh thần văn hóa ở phần đất này có những độc đáo, tự 
						nhiên, b́nh dị và đôi khi đi đến sỗ sàng, trong khi tinh 
						thần văn hóa ở phần đất thuộc Đàng Ngoài (thuộc chúa 
						Trịnh) đă đạt đến mức tinh luyện, khuôn mẫu, nghiêm túc.
 
					
					
						 - Người dân miền Nam chịu 
						ảnh hưởng của luồng văn hóa có tính b́nh dân của các văn 
						nhân theo vào với Chúa Nguyễn trong giai đoạn đầu đan 
						kết với những luồng văn hóa của Khmer, Hoa, Pháp, cộng 
						với điều kiện sinh hoạt dễ dàng, đất rộng người thưa, 
						sông sâu nước chảy, tài nguyên thiên nhiên thừa thải. Họ 
						sống b́nh dị, không muốn bó ḿnh trong những khuôn mẫu 
						có sẵn là điều dễ hiểu. Có khi do điều kiện sinh hoạt 
						riêng rẽ (trong giai đoạn đầu tiên không phải ở làng xă 
						nào cũng có những bậc túc nho hay người biết chữ), nên 
						sự tùy tiện trong giải thích hay trong sinh hoạt văn hóa 
						làm nảy sinh tính dễ dăi, uyển chuyển, sao cũng được, 
						miễn là mọi người vui và hạnh phúc là được rồi. Hơn nữa, 
						đối với những con người tiền phong, sau những lúc phấn 
						đấu với thiên nhiên c̣n mang tính hoang dă:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Xứ đâu có xứ 
								lạ lùng
 
								Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - hay
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Cà Mau khỉ 
								khọt trên bưng
 
								Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - th́ trong những lúc có 
						dịp ngồi lại với nhau như sau vụ mùa, buổi chợ, trong 
						những dịp ma chay cưới hỏi, cất nhà... người b́nh dân 
						c̣n có nhu cầu giải trí nào khác ngoài những dạng nói 
						thơ, kể chuyện tiếu lâm, hát, ḥ....? Họ không có khả 
						năng ngâm vịnh, sáng tác.
 
					
					
						 - Ca dao miền Nam đă phát 
						triển trong chiều hướng đó. Chính yếu tố b́nh dị, nghĩ 
						sao nói vậy, mộc mạc, dễ hiểu đă làm cho ca dao miền Nam 
						có sức sống rất mạnh, được quần chúng chấp nhận dễ dàng 
						và do đó làm ảnh hưởng đến sự sinh hoạt và tư tưởng của 
						quần chúng:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - - Hủ qua 
								(khổ qua) xanh, hủ qua trắng
 
								Hủ qua mắc nắng hủ qua đèo 
								Thương em, th́ anh làm giấy giao kèo 
								Lăn tay điểm chỉ mới thiệt con mèo của em 
							
							
								 - - 
								Thấy em g̣ má hồng hồng
 
								Phải chi em đừng mắc cỡ, anh bồng anh hun 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - thật khó t́m thấy những 
						câu tương tự như vậy ở ca dao miền Bắc.
 
					
					
						 - II. Vài tính chất có 
						tính đặc trưng
 
					
					
						 - Ca dao, ở đâu cũng vậy, 
						là sản phẩm của quần chúng. Chúng ta không biết tác giả 
						hay hoàn cảnh sáng tác, nhưng chúng ta biết chắc một 
						điều: ca dao được người b́nh dân biết đến, sử dụng và 
						truyền bá. Không có quần chúng, ca dao nói riêng, văn 
						chương b́nh dân nói chung không thể phát triển và lưu 
						truyền. Qua ca dao, chúng ta có thể mường tượng được nếp 
						sinh hoạt, hoàn cảnh sống và phần nào tâm tư của người 
						b́nh dân. Do vậy, tuy ca dao có những cái chung nhưng 
						cũng có những cái riêng của vùng. Chúng ta khó có thể 
						tưởng tượng được ca dao miền Nam lại có những câu nói về 
						núi cao, ao cá:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - - Núi cao 
								chi lắm núi ơi,
 
								Che khuất mặt trời, không thấy người yêu. 
							
							
								 - - Tiếc công 
								anh đào ao nuôi cá,
 
								Năm bảy tháng trời, người lạ tới câu. 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - dù trên thực tế, không 
						phải người dân miền Nam không biết núi, biết ao.
 
					
					
						 - Chúng ta thử lược qua 
						những tính chất đặc sắc của ca dao miền Nam.
 
					
					
						 - 1/ Tính uyển chuyển.
 
					
					
						 - Một trong những nét dễ 
						nhận thấy là người miền Nam không chịu bó trong những 
						khuôn mẫu có sẵn, có lẽ do cuộc sống quá được ưu đăi từ 
						thiên nhiên hào phóng, con người cũng trở nên phóng 
						khoáng. Từ một câu có tính nhận xét trong đời sống hàng 
						ngày, mà chúng ta thấy ở đâu cũng đúng:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Chiều chiều quạ 
								nói với diều
 
								T́m nơi đống trấu có nhiều gà con 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - vào đến miền Nam chúng 
						ta nghe thấy nó biến thể thành:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Chiều chiều 
								quạ nói với diều
 
								Cù Lao Ông Chưởng (5) có nhiều cá tôm 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Người miền Nam có thể 
						chuyển nhóm chữ "Cù Lao Ông Chưởng" thành một nhóm chữ 
						nào đó thích hợp với địa danh họ đang sống, họ chẳng hề 
						bị bó buộc phải rập khuôn theo câu ca có sẵn. Vùng Ô 
						Môn, B́nh Thủy (Cần thơ) cũng có câu tương tự, chỉ đổi 
						bốn chữ cù lao Ông Chưởng bằng bốn chữ Ô Môn 
						B́nh Thủy. Chúng ta có thể t́m thấy dạng này khắp 
						nơi ở miền Nam, lâu dần chúng ta không c̣n biết câu nào 
						là nguyên bản, câu nào là sao chép. Ở vùng Cao Lănh, 
						Đồng Tháp Mười chúng ta có câu:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Nước chảy 
								Láng Linh, chảy ra Vàm Cú
 
								Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Nhưng vùng Trà Cú (Vĩnh 
						Long - Vĩnh B́nh), ta lại nghe:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Nước chảy 
								sông xa, chảy qua Trà Cú
 
								Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Một câu khác mà chúng 
						ta ai cũng biết:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Nam Vang đi 
								dễ khó về,
 
								Trai đi có vợ, gái về có con 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - để chỉ Nam Vang là xứ ở 
						xa, rất xa, đi lại không tiện, ai đi Nam Vang (nghĩa là 
						qua Miên) làm ăn th́ thường lập gia đ́nh luôn ở bên ấy. 
						Ở miền Nam, chúng ta nghe không thiếu ǵ câu hát trên, 
						ch́ đổi chữ Nam Vang thành Long Xuyên, Cần Thơ, G̣ 
						Công... và nghe những câu ấy, chúng ta cảm được cái t́nh 
						ấm áp của người địa phương làm cho kẻ lăng du phải dừng 
						chân:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Tới đây th́ 
								ở lại đây,
 
								Chừng nào bén rễ xanh cây rồi về 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Thật ra. tính uyển 
						chuyển vừa nêu không phải là một đặc thù của ca dao miền 
						Nam, nhưng ở miền Bắc và miền Trung, những dị bản của 
						những câu ca dao ít t́m thấy hơn ở trong Nam. Một trong 
						những câu điển h́nh là câu:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Gió đưa cành 
								trúc la đà
 
								Hồi chuông Trấn Quốc, canh gà Thọ Xương 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - ở ngoài Bắc, vào đến 
						Huế biến thành:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Gió đưa cành 
								trúc la đà
 
								Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Cũng v́ tính chất này 
						mà ở miền Nam, chúng ta thấy ca dao thường ở dạng lục 
						bát biến thể nhiều hơn. Số chữ trong mỗi câu hoàn toàn 
						tùy thuộc vào cách nói, không bị g̣ cho đủ 6 hay 8 chữ, 
						miễn sao diễn tả đủ ư muốn nói và có vần điệu dễ đọc, dễ 
						nhớ. Phải chăng tính thực tiển và phóng khoáng của người 
						dân Nam bộ đă làm cho sự uyển chuyển dễ xảy ra hơn? Nhân 
						đây, xin nói thêm về tính uyển chuyển đó: ở trong Nam: 
						Ai đă từng sống ở nông thôn vùng Cửu Long đều biết, khi 
						cúng dựng nhà người nông dân miền Nam thường bày dĩa 
						trái cây trên bàn thờ theo công thức: dừa, đu đủ, 
						xoài; hay măng cầu, dừa, đu đủ, xoài biểu thị 
						ḷng mơ ước của họ: vừa đủ xài hay cầu vừa đủ 
						xài, họ không bao giờ cúng chuối, dù trên bàn thờ 
						của gia đ́nh vào ngày Tết, cho rằng như vậy là chúi 
						nhủi, khác với cư dân từ Nha Trang vào đến Xuân Lộc 
						luôn có chuối trên bàn thờ, bất luận dịp nào- Đó là do 
						cách phát âm trong Nam không phân biệt dừa và vừa, 
						xoài và xài, chuối và chúi. Ở đồng bằng Nam Bộ người 
						ta chỉ bày chuối trên bàn thờ Phật. Cũng do sự dễ dăi 
						trong phát âm, không chàng trai gốc ngoài Bắc hay Trung 
						nào, lần đầu tiên khi vào miền Nam (đặc biệt miệt vườn 
						Cửu Long) không hết hồn khi gặp mấy cô gái ruộng tay cầm 
						ṿng hái (lưỡi hái) chấp lại kính cẩn chào xin vái 
						thầy hay bị chới với khi cô gái vườn niềm nở mời 
						hôm nào "quởn" ( hưởn), mời anh vô vườn em chơi. Xin 
						nhắc lại là người miền Nam không phân biệt được âm v
						và âm d, gi .
 
					
					
						 - 2/ Tính cường điệu:
 
					
					
						 - Người b́nh dân miền Nam 
						nói riêng, và cả nước nói chung ít học, nhưng ở miền 
						Nam, người b́nh dân lại thường ra vẻ "ta đây" hay chứng 
						tỏ ḿnh ngon lành, thích nói chữ như muốn chứng tỏ ḿnh 
						là người hay chữ, đôi khi không trúng trật vào dâu
 
					
				 
				
					
						
							
								 - - Bước vô 
								trường án, vỗ ván cái rầm
 
								Bủa xua (6) ông Tham biện, chớ bạc tiền ông 
								để ở đâu? 
							
							
								 - - Cách một 
								khúc sông, kêu bằng cách thủy (?)
 
								Chợ Sài G̣n xa, chợ Mỹ cũng xa (7) ... 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Chính v́ tính hay phô 
						trương không đúng chỗ, nên chúng ta đừng chờ đợi ở ca 
						dao miền Nam những cách sử dụng đúng từ ngữ, diễn tả 
						đúng cách, đúng chỗ. Cái mà chúng ta thường gặp ở đó là 
						những cách nói vô nghĩa, cốt chỉ có vần, có điệu; nhất 
						là trong các câu ḥ, chúng ta thấy h́nh như họ cố ư kéo 
						dài câu ḥ, nói lan man, cốt để tranh thủ thời gian t́m 
						ư. Họ thường ưa nói quanh co, không đi ngay vào đề tài 
						chính, mà đôi khi lối quanh co này chẳng dính dáng ǵ 
						đền việc họ muốn nói. Muốn trêu chọc một cô gái, chàng 
						trai nói lan man:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Đầu giồng có 
								bụi chuối
 
								Cuối giồng có cây đa 
								Ngă ba đường cái có cây tơ hồng 
								Con gái chưa chồng, cái ḷng hực hở, 
								Con trai chưa vợ, ruột thắt tầm canh 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - để cuối cùng mới nói :
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Ngó lên mây 
								trắng trời xanh,
 
								Ưng đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - hay cô gái muốn từ chối 
						nhẹ nhàng lời tỏ t́nh của chàng trai v́ c̣n phải lo 
						phụng dưỡng cha mẹ già (không chừng đó chỉ là cái cớ nêu 
						ra để từ chối), cô không nói thẳng vào vấn đề, mà xa xôi 
						bóng gió trước:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Đèn nào cao 
								cho bằng đèn Châu Đốc
 
								Gió nào độc cho bằng gió Nam Vang 
								Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ 
								Có chút mẹ già, biết bỏ ai nuôi ? 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Ta thấy ngay, tính chất 
						này khác hẳn với cách nói có tính cách khuôn mẫu ở ngoài 
						Bắc, người dân miền Bắc thường nghiêm túc hơn, trữ t́nh 
						một cách khách sáo hơn, mang ít nhiều tính nghệ thuật 
						hơn, và thường "đi thẳng" vào vấn đề hơn:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Trèo lên cây 
								bưởi hái hoa,
 
								Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân 
								Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, 
								Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay... 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - hay khen tặng vẻ đẹp 
						của cô gái một cách kín đáo trong:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - ...Xây dọc rồi 
								lại xây ngang
 
								Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân 
								Có rửa th́ rửa chân tay, 
								Đừng rửa lông mày chết cá ao anh 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Kiểu nói dông dài này 
						gặp rất thường trong ca dao miền Nam, nơi mà con người 
						thường ồn ào chứng tỏ sự "thông thái" của ḿnh một cách 
						rất dễ dăi, mà cũng rất dễ thương
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Đèn Sài G̣n 
								ngọn xanh ngọn đỏ
 
								Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu 
								Anh về học lấy chữ nhu 
								Chín trăng em đợi, mười thu em chờ 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - hay:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Tàu xúp lê 
								một, c̣n thương c̣n nhớ
 
								Tàu xúp lê hai, c̣n đợi c̣n chờ 
								Tàu xúp lê ba, tàu ra biển Bắc, 
								Tay vịn song sắt, nước mắt ṛng ṛng 
								Thương em từ thủa mẹ bồng 
								Bây giờ em lớn, em lấy chồng bỏ anh! 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - 3/ Tính trữ t́nh
 
					
					
						 - Trữ t́nh vốn là một 
						thuộc tính của t́nh nam nữ, cho dù ở phần nào của đất 
						nước, người b́nh dân diễn tả t́nh cảm của ḿnh một cách 
						rất nhẹ nhàng, thoải mái. Quả thật, kho tàng văn chương 
						b́nh dân cho ta vô vàn những câu tỏ t́nh bóng gió có, lộ 
						liễu có, và rất đậm t́nh quê hương. Miền Nam cũng không 
						ra khỏi thông lệ đó. Ca dao miền Nam dùng để tỏ t́nh có 
						nhiều như bất cứ vùng nào của đất nước. Ta có thể đơn cử 
						vài câu:
 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - -Rồng chầu 
								ngoài Huế,
 
								Ngựa tế Đồng Nai, 
								Nước sông trong chảy lộn sông ngoài, 
								Thương người xa xứ lạc loài tới đây. 
							
							
								 - -Tḥ tay anh 
								ngắt ngọn ng̣
 
								Thương em đứt ruột, giả đ̣ ngó lơ 
							
							
								 - - Mù u bông 
								trắng, lá thắm, nhị (nhụy) vàng,
 
								Anh đi khắp xứ, tới đây mới gặp nàng thiệt dễ 
								thương 
							
							
								 - - Mẹ mong gả 
								thiếp về vườn,
 
								Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh 
								Thương anh cũng muốn theo anh 
								Ngặt cha với mẹ không đành th́ sao? 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						Cũng như các phần khác của đất nước, ca dao miền Nam thể 
						hiện rơ nét phong cảnh, sinh hoạt, đồng ruộng màu mỡ, 
						sông rạch của miền Nam. Đời sống t́nh cảm của người dân 
						cũng trải rộng với thiên nhiên, sông nước: 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - -Bớ chiếc 
								ghe sau, chèo mau anh đợi
 
								Qua khỏi chỗ này lùm bụi tối tăm. 
							
							
								 - - Cầu cao 
								ván yếu,
 
								Con ngựa nhỏ xíu nó kiệu tứ linh 
								Em đi đâu tăm tối một ḿnh 
								Hay là em có tư t́nh với ai? 
							
							
								 - - Tàu Nam 
								Vang chạy ngang cồn cát,
 
								Xuồng câu tôm bơi sát mé nga 
								Thấy em cha yếu mẹ già 
								Muốn vô hoạn dưỡng biết là được chăng 
							
							
								 - -Mười giờ xe 
								lửa nhỏ bỏ chợ Bến Thành,
 
								Xúp lê kia dạo thổi, bộ hành xôn xao. 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						Đối với những t́nh cảm nhẹ nhàng khác, t́nh gia đ́nh 
						chẳng hạn, cách diễn tả ở miền Nam cũng đơn giản và thực 
						tế hơn: 
					
				 
				
					
						
							
								 - - Râu tôm 
								nấu với ruột bầu,
 
								Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon 
							
							
								 - - Chim quyên 
								ăn trái nhăn lồng
 
								Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. 
							
							
								 - - Sông dài 
								cá lội biệt tăm
 
								Phải duyên chồng vợ, mấy năm cũng chờ 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - khác hẳn với tính sâu 
						sắc, nên thơ như ở miền Bắc:
 
					
					
						 - Hôm qua ra đứng bờ ao
 
						Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ... 
						...Đá ṃn nhưng dạ chẳng ṃn 
						Tào khê nước chảy vẫn c̣n trơ trơ. 
					
					
						 - hay thâm trầm như ở 
						miền Trung.
 
					
					
						 - Chồng chài, vợ lưới, 
						con câu
 
						Sông Ngô, bể Sở, biết đâu bến bờ? 
						Khi nên tay kiếm tay cờ 
						Không nên th́ cũng chẳng nhờ cậy ai 
					
					
						 - Qua ca dao chúng ta có 
						thể t́m thấy nhiều từ rất thông dụng ở miền Nam. Đây là 
						nguồn tài liệu quan trọng cho những ai muốn khảo cứu về 
						ngữ âm miền Nam:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - - Nước rong 
								(8) nước chảy tràn đồng
 
								Tơ duyên có đó, chỉ hồng chưa xe 
								- Nước ṛng bỏ băi xa cừ 
								Mặt em có thẹo, anh trừ đôi bông 
							
							
								 - - Bậu nói 
								với qua bậu không hái mận bẻ đào
 
								Chớ mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay. 
							
							
								 - - Mưa lâm 
								thâm, ướt dầm bông sói
 
								Bậu đi lấy chồng, sao không nói anh hay? 
							
							
							
								 - ...
 
							
						 
						
					 
				 
				
					
						  
						4/ Tính chớt nhả, cắt cớ: 
					
					
						 - Tính phóng khoáng trong 
						cuộc sống ở miền Nam thể hiện rất rơ nét trong ca dao 
						miền Nam, tính chất này c̣n được đẩy xa hơn, trở thành 
						chớt nhả. Hơn đâu hết, chính miền Nam là nơi người ta 
						t́m thấy dễ dàng sự cắt cớ, sống sượng đến độ bất ngờ 
						khiến người trong cuộc (dù có học) chưa chắc thoát ra 
						được. Cô gái đang làm việc dưới ruộng, ḿnh mẩy dầy bùn 
						śnh, hỏi chàng trai đang ở trên bờ:
 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - Hai tay em 
								cắm xuống bùn
 
								Ḿnh mẩy lấm hết, chớ anh hun chỗ nào? 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						chàng trai trả lời tỉnh bơ: 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - Cầu trời đổ 
								trận mưa rào
 
								Bùn śnh trôi hết, chỗ nào anh cũng hun! 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						Chàng trai, muốn đặt cô gái vào t́nh trạng khó xử, sống 
						sượng yêu cầu 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - Đôi ḿnh mới 
								gặp ngày nay
 
								Cho hun một cái em Hai đừng phiền 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - chàng trai đắc ư, tưởng 
						sẽ nhận được ở cô gái sự e thẹn, hay lời rủa sả hay một 
						cái bộp tai; không dè cô gái không phải tay vừa, 
						đốp chát liền:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Ừ, muốn hun 
								th́ hun cho liền
 
								Đừng làm thố lộ xóm giềng cười em 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - trong trường hợp nếu 
						bạn là chàng trai đó bạn làm sao? không biết bây giờ ai 
						là người bị lúng túng, ở đây chàng trai chẳng những 
						không lúng túng mà c̣n liều lĩnh sống sượng hơn, lỡ rồi 
						đành tới luôn:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Tui hun ḿnh 
								dẫu có la làng
 
								Th́ tui ra đó hai đàng chịu chung 
								Tui hun ḿnh dẫu có làm hung 
								Nhơn cùng tắc biến, tui chun xuống sàn (9) 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Về tính cắt cớ, muốn 
						đặt đối phương vào trong những t́nh huống khó tháo gỡ, 
						chúng ta thường gặp trong những câu ḥ đố. Nếu ở ngoài 
						Bắc những câu hát đố luôn có tính nghiêm trang, có tính 
						"bác học" đến độ chúng ta phải đặt dấu hỏi liệu đó có 
						phải là sản phẩm của lớp b́nh dân ít học? xin đơn cử:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - ...Chùa nào mà 
								lại có hang
 
								Ở đâu lắm gỗ thời chàng biết không? 
								Ai mà xin được túi đồng 
								Ở đâu lại có con sông ngân hà 
								Nước nào dệt gấm thêu hoa... 
								...Chùa Hương Tích mà lại có hang 
								Trên rừng lắm gỗ thời nàng biết không? 
								Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng 
								Trên trời lại có con sông ngân hà 
								Nước Tàu dệt gấm thêu hoa... 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - hay những câu hát đố 
						đẹp và hay như một bài thơ:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Đố ai biết lúa 
								mấy cây
 
								Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng 
								Đố ai quét sạch lá rừng 
								Để tôi khuyên gió, gió đừng rung cây... 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - ở miền Trung, chúng ta 
						có câu:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Đố anh con rít 
								mấy chưn
 
								Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người (10) 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - th́ ở miền Nam, chúng 
						ta khó t́m thấy những câu ḥ, câu hát đố có tính trữ 
						t́nh như thế, nhưng chúng ta lại tim thây khá nhiều 
						những câu có tính buộc thắt, khiến đối phương phải rất 
						nhanh trí để thoát khỏi thế bí, và như chúng ta sẽ thấy, 
						họ "thoát hiểm" rất dễ dàng và gài lại đối phương. Những 
						câu sau đây sưu tập được từ Vĩnh Long (11)
 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - -Thấy anh ăn 
								học có thi
 
								Em đây xin hỏi con chi không đầu 
								Sao em lại hỏi cơ cầu 
								Thượng cầm hạ thú, không đầu là con cua 
							
							
								 - - Thấy anh 
								theo dơi bút nghiên
 
								Em đây xin hỏi, trời nghiêng bên nào 
								Anh từng đọc sách bên Tàu 
								Đất nghiêng th́ có, trời nào đâu nghiêng 
							
							
								 - - Thấy anh 
								ăn học lảu thông
 
								Em đây xin đố, khăn lông có mấy đường 
								Em về đếm hết cỏ vườn 
								Lại đây anh nói mấy đường khăn lông 
							
							
								 - - Thấy anh 
								ăn nói có tài
 
								Em đây xin đố cây xoài có mấy bông 
								Em về đếm cá dưới sông 
								Lại đây anh nói mấy bông cây xoài. 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						Những câu trên có cùng một dạng thức, điều đó chứng tỏ 
						có thể từ một người làm ra, nhưng trong một đám cưới ở 
						một vùng nông thôn thuộcVĩnh Long, trong đêm nhóm họ ở 
						nhà cô dâu, chính người viết đă nghe ít nhất có hai câu 
						đố trên, tất nhiên không thấy có câu trả lời thích đáng 
						từ đối phương. Cũng có những câu đố mắc mỏ, không mong 
						ǵ t́m được câu trả lời xác đáng: 
						  
					
				 
				
					
						
							
								 - Đố ai kiếm 
								được
 
								Cái vảy con cá trê vàng, 
								Lá gan con tép bạc 
								Mấy ngàn em cũng mua. 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						chỉ c̣n nước trả lời theo kiểu huề vốn: 
					
				 
				
					
						
							
								 - Kiếm đâu cho 
								được
 
								Cái vảy con cá trê vàng, 
								Lá gan con tép bạc 
								Để nàng chịu mua? 
							
						 
					 
				 
				
					
						  
						III. Vài cảm nghĩ 
					
					
						 - Trong những phần trên, 
						chúng ta đă lượt qua một vài đặc sắc của ca dao miền 
						Nam. Trong khuôn khổ của bài báo, người viết không thể 
						tŕnh bày hết những nét đặc thù của ca dao miền Nam nói 
						riêng cũng như những dạng văn chương truyền khẩu khác 
						như ḥ, vè... nói chung. Điều đáng nói là văn hóa miền 
						Nam chưa có chỗ đứng dúng đắn trong văn học sử của Việt 
						Nam, cũng chưa được đề cập một cách đầy đủ trong chương 
						tŕnh học ngày trước (và cả ngay bây giờ). Chúng ta có 
						thể có nhiều cách giải thích. (1) Có lẽ do người viết 
						chương tŕnh của bộ giáo dục trong những năm đầu chuyển 
						tiếp từ chương tŕnh Pháp sang chương tŕnh Việt (và cả 
						những vị về sau, trong các chương tŕnh cải tổ) không có 
						tài liệu nhiều về văn học trong Nam; hay (2) người viết 
						chương tŕnh không biết ǵ về văn học trong Nam; hay (3) 
						người viết chương tŕnh cho rằng văn học trong Nam quá 
						nôm na, không có vẻ "bác học"; hay (4) đơn giản hơn hết 
						là văn học trong Nam chưa có đủ chiều dài về thời gian 
						để có chỗ đứng trong văn học sử... Dù v́ bất cứ nguyên 
						nhân nào, chúng ta đă không dành một chỗ đứng thích đáng 
						cho văn học trong Nam. Chúng ta đă bỏ quên tính đại 
						chúng trong giáo dục, phần nào, chúng ta đă tự tách rời 
						người có học với quần chúng; và quần chúng này, tuyệt 
						đại đa số là những người có rất ít những liên hệ văn hóa 
						với những phần đă được dạy ở nhà trường. Làm thế nào đại 
						đa số quần chúng ở miền Nam ấy có thể hiểu và thông cảm 
						với những ǵ mà chính họ, hay con cái của họ đă nhận 
						được từ trường, khi những điều đó không thấy được thể 
						hiện quanh họ? - Mặc dù không thể không nói đến những 
						đóng góp về văn học Việt Nam do những nhà văn, nhà báo 
						tiền phong (mà hầu hết đều xuất thân từ phân nữa trên 
						của đất nước), nhưng sự mất cân đối trong chương tŕnh 
						học đă làm học sinh trở thành xa lạ với môi trường họ 
						đang sống, trở thành vong thân với chính xă hội của họ.
 
					
					
						 - Ngày nay, phần nào văn 
						chương b́nh dân của miền Nam đă đi vào đời sống qua các 
						bài hát dựa vào các điệu lư, điệu ḥ. Nếu cách đây ít 
						lâu, ngoại trừ lănh vực cải lương, cổ nhạc Nam phần, ca 
						sĩ dù người miền Nam, tŕnh bày những bài hát về miền 
						Nam cũng ráng tập phát âm bằng giọng Bắc, càng chuẩn 
						càng tốt, không dám hát bằng giọng Nam sợ bị chê là quê 
						mùa, th́ bây giờ nhạc sĩ, ca sĩ (có cả người gốc ngoài 
						Bắc) dùng hẳn giọng Nam để sáng tác, để hát, không có 
						cái "mặc cảm" quê mùa như trước. Thử tưởng tượng Phi 
						Nhung hát bài Lư con Sáo Bạc Liêu (Phan Ni Tấn) bằng 
						giọng Bắc th́ nó ra làm sao? C̣n những bài khác nữa: 
						Tiếng Hát Chim Đa Đa (Vơ Đông Điền), Bài T́nh Ca Đất 
						phương Nam (Lư nhất Vũ - Lê Giang), Chiếc Áo Bà Ba (Trần 
						Thiện Thanh), C̣n Thương rau đắng mọc sau hè (Bắc Sơn), 
						Điệu Buồn Phương Nam (Vũ Đức Sao Biển)... làm thế nào để 
						ca sĩ diễn tả tính Nam bộ trong các bài hát đó bằng 
						giọng Bắc. Cũng vậy, ngày xưa lúc ban Hợp Ca Thăng Long 
						hát bài Tiếng Sông Cửu Long (trong trường ca Hội Trùng 
						Dương), nghe Thái Thanh ngâm:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Chẻ tre bện 
								sáo cho dày
 
								Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp em 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - hay th́ có hay, nhưng 
						thấy nó vẫn là lạ.
 
					
					
						 - Cũng nhân đây, xin nói 
						thêm về cái thiếu hiểu biết về miền Nam, hay coi nhẹ 
						tinh thần Nam bộ, mà các tác giả về mọi lănh vực đă 
						không đặt nặng việc sử dụng đúng ngôn ngữ trong Nam cho 
						các công việc của họ. Trong Việt Nam Sử Lược, khi nói về 
						Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, sử gia Trần Trọng Kim chỉ 
						dùng Nguyễn Hữu Kính, người dân miền Nam không thể nhận 
						ra đó là vị Chưởng Cơ đă có rất nhiều công trong việc 
						xây dựng và bảo vệ phần đất này trong giai đoạn đầu. 
						Cũng vậy, khi Phạm Duy viết đến miền Nam (trong Con 
						Đường Cái Quan) đă dùng:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Giả ơn cái 
								cối cái chày
 
								Đêm khuya giả gạo có mày có tao 
								Giả ơn cái nhịp cầu ao 
								Đêm khuya vo gạo, có tao có mày 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - Không ai có ư kiến ǵ 
						về lănh vực âm nhạc mà nhạc sĩ Phạm Duy đă là bậc thầy, 
						nhưng cách dùng chữ, rơ ràng là ông vẫn c̣n ảnh hưởng 
						miền Bắc nên không dùng đúng những chữ mà người miền Nam 
						đă dùng. Nghe nó ngọng nghịu và làm giảm ít nhiều giá 
						trị đích thực của bài hát. Người miền Nam không ai nói 
						"giả ơn" mà nói "trả ơn" hay "cám ơn". Chúng ta cũng có 
						thể bỏ qua v́ cứ xem người "lữ khách" của Phạm Duy chỉ 
						mới vừa vào miền Nam, chưa đổi được thói quen của ḿnh; 
						nhưng "cầu ao" để vo gạo th́ không có. Ở miền Nam chỉ có 
						"cầu nước, cầu nhủi", đơn giản v́ miền Nam không có ao 
						(trừ ao Bà Om của Người Miên ở Trà Vinh, một địa điểm để 
						du ngoạn, cắm trại), miền Nam chỉ có hồ, đ́a, đầm, vũng, 
						giếng...
 
					
					
						 - Chúng ta phải chấp nhận 
						tính đơn giản mộc mạc... của miền Nam như là một đặc thù 
						của văn chương ở vùng đất non trẻ này của đât nước, 
						chúng ta không có mặc cảm ǵ về sự nôm na, chất phác của 
						lớp người b́nh dân ấy. Trả lại cho văn chương và văn hóa 
						miền Nam chỗ đứng đúng đắn trong văn học sử là việc nên 
						làm, phải làm. Công việc đó qui mô và cần công sức của 
						nhiều học giả, nhà nghiên cứu, của nhiều người. Bài viết 
						này xin được là một đóng góp nhỏ cho công việc to lớn 
						ấy.
 
					
					
						 - Tài liệu Tham Khảo:
 
					
					
						 - 1. Việt Nam Sử Lược 
						(Quyển II) - Trần Trọng Kim -Trung Tâm học Liệu xb 1971
 
					
					
						 - 2. Việt Sử Tân Biên 
						(Quyển 3) - Phạm văn Sơn - Cơ sở xuất bản Đại Nam (in 
						lại)
 
					
					
						 - 3. Đồng Bằng Sông Cửu 
						Long hay là Văn Minh Miệt Vườn - Sơn Nam - Nhà xuất bản 
						Xuân Thu (in lại)
 
					
					
						 - 4. Lịch Sử Khẩn Hoang 
						Miền Nam - Sơn Nam - Nhà xuất bản Xuân Thu (in lại)
 
					
					
						 - 5. Tiến Tŕnh Văn Nghệ 
						Miền Nam - Nguyễn Q. Thắng - Văn Hiến xb 1994
 
					
					
						 - 6. Sưu tầm Ca Dao Đồng 
						Bằng Cửu Long - Tài liệu in roneo, trung học Tống Phước 
						Hiệp - Vĩnh Long.
 
						  
						  
					
					
						 - Chú thich
 
					
					
						 - (1) - Trong toàn bài, 
						những câu in nghiêng, theo thiển ư của người viết,là 
						những câu trong miền Nam.
 
					
					
						 - (2) - Năm 1708, đời 
						Nguyễn Phúc Chu
 
					
					
						 - (3) - Kinh Vĩnh Tế, 
						Kinh Thoại Hà (Kinh Núi Sập) do Thoại Ngọc Hầu đốc xuất 
						dân binh đào.
 
					
					
						 - (4) - Trong chuyện Săi 
						Văi của Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) ta thấy c̣n rất 
						nhiều từ không có ở ngoài Bắc, nhưng lại vẫn c̣n dùng 
						trên cửa miệng của dân miền Nam như dươn (duyên), làm 
						riết, tu hoài tu huỷ, cho xuê, hây hây, ấm cật, bậu, 
						xinh ghê...
 
					
					
						 - (5) - Tức Chưởng Cơ 
						Nguyễn Hữu Cảnh, cù lao thuộc huyện Chợ Mới - Long 
						Xuyên, An Giang,
 
					
					
						 - (6) - Phiên âm chữ 
						"bonjour" (tiếng Pháp)
 
					
					
						 - (7) - Cũng có chỗ đọc:
						Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thủy
 
					
					
						 - Chợ Sài g̣n xa, chợ 
						Mỹ cũng xa...
 
					
					
						 - không biết có loại cúc 
						nào mà mọc dưới sông?
 
					
					
						 - (8) - Nước rong: 
						nước lớn do thủy triều cao, nước từ sông không đổ ra 
						biển được, chảy vào rạch, đồng ruộng; khác với nước 
						ṛng do thủy triều thấp, nước từ ruộng chảy ra rạch, 
						sông lớn.
 
					
					
						 - (9) - Một dị bản khác:
 
					
				 
				
					
						
							
								 - Tui ôm, bậu 
								có la làng,
 
								th́ tui ôm riết hai đàng xấu chung. 
								Tui ôm bậu có làm hung, 
								nói cùng bất quá tui chun xuống sàn 
							
						 
					 
				 
				
					
						 - (10) - Câu này nghe 
						được ở vùng Phan Rang Nha Trang. Không biết Cầu Ô ở đâu, 
						nhưng chợ Dinh có thể là chợ Kinh Dinh ở Phan Rang. Cũng 
						có người cắt nghĩa cầu Ô là cầu Ô Thước (trong 
						chuyện Ngưu Lang Chức Nữ), chợ Dinh là chợ tại 
						các Dinh, các Trấn ở miền Nam, nơi dân cư đông đúc.
 
					
					
						 - (11) - Sưu Tầm Ca 
						Dao Đồng Bằng Cửu Long - Tài liệu lưu hành nội bộ, 
						in roneo do Trung Học Tống Phước Hiệp - Vĩnh Long ấn 
						hành
 
					
				 
			 
		 
		   
		   |