|   | 
		
		
			-  
 
			- 
			
			Dấu ấn sông rạch trong đời sống của 
			người dân Nam bộ
 
			-  
 
			- Nam bộ được mệnh 
			danh là xứ sở của những ḍng sông, nơi có khoảng 54.000 km chiều dài 
			sông, rạch. Chính yếu tố sông rạch đă góp phần quan trọng vào cuộc 
			sống của người dân nơi đây. 
 
			- Trước tiên là việc 
			xác định địa bàn cư trú. Trong quá tŕnh mở cơi vào phương Nam, các 
			lưu dân đă nhận thấy tầm quan trọng của sông rạch trong việc ổn định 
			cuộc sống của họ sau này. Việc chọn địa bàn cư trú ven sông rạch 
			không phải là một lựa chọn ngẫu nhiên mà đó là tất cả những kinh 
			nghiệm thực tiễn từ việc tương tác với môi trường tự nhiên. Cư trú 
			ven sông đă tạo thuận lợi cho việc di chuyển bằng đường thủy, phù sa 
			sông rạch bồi đắp quanh năm thuận lợi cho việc dẫn thủy nhập điền, 
			tưới tiêu ruộng đồng, hoa màu, nơi ở thoáng mát cùng bao tiện ích 
			của cuộc sống sinh hoạt thường nhật như: tắm giặt, đánh bắt thủy hải 
			sản, giao lưu trao đổi hàng hóa, bán buôn...
 
			- Mô h́nh nhà ở thường 
			thấy nhất là trước sông sau ruộng. Loại h́nh cư trú này rất phổ biến 
			ở Nam bộ. Dân cư sống tập trung nhau thành một dải dài theo ḍng 
			chảy của con sông. Mỗi nhà cách nhau bằng một khoảnh đất trống, một 
			bụi chuối, hay hàng cây nào đó. Nhà ở chính giữa, phía trước là một 
			con lộ đất nhỏ rồi mới tới sông. Ở bến sông, người ta bắc một cây 
			cầu ván gie ra mé sông để làm nơi giặt giũ, tắm gội, rửa chén bát 
			cũng như mọi sinh hoạt khác cần đến nguồn nước. Có khi người ta chỉ 
			để một hoặc hai thân cây dừa nằm lài từ trên bờ đến mé nước để làm 
			cầu. Thân dừa đẽo thành bậc thang để không trợt té. Kế bên cầu 
			thường là chỗ đậu ghe, xuồng để thuận tiện mỗi khi di chuyển. Có 
			người cất một mái lá gie ra sông để ghe xuồng tránh nắng mưa. Dọc 
			theo triền sông thường là những hàng cây so đũa, điên điển, bần, 
			dừa...
 
			- Mô h́nh cư trú thứ 
			hai thường thấy là cư trú ở vùng giáp nước. Nơi đây thường diễn ra 
			các buổi họp chợ, buôn bán, trao đổi hàng hóa và cũng là một cái 
			“chợ thông tin” cho mọi người. Giáp nước là nơi ghe xuồng ngược xuôi 
			thường hay ghé lại nghỉ ngơi, vào hàng quán để ăn uống đợi con nước 
			sau. Điều này rất thuận tiện cho họ, v́ cả hai chuyến đi về họ đều 
			đi con nước xuôi, chèo chống đỡ mệt, khỏi phải tốn nhiều công sức. 
			“Đi trên kinh rạch Nam Việt, gặp chỗ giáp nước th́ luôn luôn ta thấy 
			một cái chợ hoặc lớn hoặc nhỏ, ít nhất cũng là một xóm có vài quán 
			bán hàng, v́ chỗ giáp nước là chỗ đổi con nước; mười ghe th́ chín 
			ghe đậu lại đợi con nước sau. Trong khi nghỉ, người ta lên bờ mua 
			thức ăn, đồ dùng, uống trà, cà phê, thế là tự nhiên nổi lên cái chợ. 
			Tóm lại, chỗ giáp nước cũng tựa như một nhà ga có chỗ tránh trên 
			đường thủy vậy”.(1) Ngoài việc mở hàng quán bán đồ ăn, thức uống, 
			những nhà cư trú nơi giáp nước cũng mở các cửa tiệm như: nhà may, 
			sửa máy xuồng, máy ghe, vá soong, vá chảo, tiệm tạp hóa... Giáp nước 
			là nơi làm ăn được, nên càng ngày người ta kéo đến ở càng đông, rồi 
			cửa tiệm thi nhau mọc lên, tạo nên một “xóm chợ” đông đúc và vui 
			nhộn. Lần lần h́nh thành nên những khu, những xóm dân cư sinh sống 
			cùng một nghề, cùng chia sẻ những hoạn nạn, khó khăn, thương yêu và 
			đùm bọc lẫn nhau.
 
			- Mô h́nh nhà ở kế 
			tiếp là trước đường sau sông. Đặc điểm cư trú này h́nh thành sau hai 
			mô h́nh kia. Mô h́nh nhà ở này h́nh thành khi công cuộc khai phá đất 
			hoang đă hoàn tất, cuộc sống xă hội phát triển, nhu cầu giao thương 
			đă cao. Mô h́nh này thường tập trung ở nơi dân cư đông đúc, đường sá 
			thuận tiện. Phía trước nhà là một con đường đất, hoặc đă được lót 
			đan, có khi tráng xi măng. Đường tương đối lớn, đối diện bên kia 
			đường thường là một dăy nhà, tạo nên thế đối diện và tâm điểm là con 
			đường này. Phía sau nhà thường là con sông lớn, người ta cho bắc cầu 
			để tiện việc sinh hoạt. Nhà kiểu này thường có đặc điểm trước là nền 
			đất sau là nhà sàn. Phía nhà sàn này dùng cho sinh hoạt cá nhân của 
			các thành viên trong gia đ́nh như: nấu bếp, đặt vài cái lu chứa 
			nước, làm nhà tắm, nhà vệ sinh. Đôi khi người ta cất thêm một cái 
			chái bên nhà để làm chỗ đậu ghe xuồng. Nhà ở kiểu này ngoài việc 
			tiện cho cho việc sinh hoạt v́ ở gần nguồn nước c̣n được cái thuận 
			lợi khác là được cả hai mặt tiền. Mặt trước, mặt sau đều có thể buôn 
			bán được, hoặc có việc đi lại khi cần.
 
			- ***
 
			- Điều dễ nhận thấy 
			nhất là người Nam bộ rất thích ăn các loại thủy hải sản. Kinh rạch 
			chằng chịt đă tạo cho vùng đất Nam bộ trở thành một vùng đa sinh 
			thái rất giàu thủy hải sản: tôm, cua, rùa, rắn, nghêu, ṣ, ốc, hến, 
			cá, lươn... Từ các nguồn nguyên liệu tự nhiên này, người Nam bộ chế 
			biến ra các món ăn khác nhau. Chế biến món ăn là một khâu vô cùng 
			quan trọng trong đó, loại rau nào ăn với món ǵ, món ăn đó chấm với 
			nước chấm nào... là một công thức đă được đúc kết qua kinh nghiệm 
			bao đời. Qua ḍng thời gian, con người càng ngày càng phát kiến thêm 
			nhiều cách kết hợp món ăn khác nhau đă làm cho kho tàng văn hóa ẩm 
			thực của dân tộc không ngừng phong phú lên. Nguồn thủy hải sản dồi 
			dào dường như bất tận giúp người Nam bộ chế biến ra nhiều món ăn vô 
			cùng phong phú, như: canh chua cá kèo, tép đất luộc gói với lá tằm 
			ruột, lươn um lá nhàu, ốc bươu luộc hèm, chuột đồng xào sả ớt... Đặc 
			biệt, lẩu mắm được xem là một món ăn đặc trưng trong văn hóa ẩm thực 
			Nam bộ. Chỉ riêng mắm đă có một danh sách thực đơn dài đáng nể: mắm 
			cá lóc, mắm cá sặc, mắm rươi, mắm c̣ng, mắm ba khía, mắm ruốc... và 
			chỉ một món mắm với những cách ăn khác nhau: mắm sống, mắm kho, mắm 
			chưng, lẩu mắm...
 
			- Gió đưa gió đẩy về 
			rẫy ăn c̣ng,
 
			- Về sông ăn cá, về 
			đồng ăn cua.
 
			- Bắt cua làm mắm cho 
			chua,
 
			- Gởi về quê nội khỏi 
			mua tốn tiền.
 
			- 
			                                     (Ca dao)
 
			- Tác giả sách Gia 
			Định thành thông chí cũng đă từng đề cập đến thói quen ăn mắm của 
			người Nam bộ như sau: “ Đất Gia Định (hiểu là cả Nam bộ) nhiều sông 
			suối cù lao, nên 10 người đă có người quen việc chèo thuyền, bơi 
			nước, ưa ăn mắm; có người trong 1 bữa ăn, ăn hết 2 ống mắm, độ hơn 
			20 cân, để làm tṛ vui trong khi đố cuộc nhau”.(2)
 
			- ***
 
			- Cơ bản trang phục 
			của người Nam bộ không mấy khác biệt so với các vùng khác trong cả 
			nước. Nhưng do sống trong môi trường sông nước mà bà con đă có những 
			lựa chọn trang phục để thích ứng với thiên nhiên ở đây. Áo bà ba và 
			chiếc khăn rằn là trang phục tiêu biểu của cả nam lẫn nữ nông dân 
			Nam bộ- những người gắn bó trực tiếp công việc của ḿnh với sông 
			nước. Do người suốt ngày phải chèo ghe, bơi xuồng, lội đồng, tát 
			mương, tát đ́a, cắm câu, giăng lưới... nên áo quần rất mau mục. Để 
			thích ứng, bà con đă chọn những loại vải dày nhuộm đen để mặc được 
			bền hơn. Chiếc áo bà ba với chiếc khăn rằn đă tỏ ra thích hợp với 
			môi sinh: vừa bền vừa tiện lại thích hợp với điều kiện sông nước. Áo 
			bà ba rất thuận tiện cho việc ra đồng: gọn, nhẹ, bền, có túi để đựng 
			một vài vật dụng cần thiết. C̣n chiếc khăn rằn th́ có thể dùng để 
			lau mồ hôi, quấn cổ và có thể dùng quấn ngang người để thay quần.
 
			- Cư dân ở Nam bộ thời 
			khẩn hoang đă dùng ghe xuồng để làm phương tiện đi lại. Thật ra, 
			giao thông đường thủy là phương tiện đi lại đă có từ lâu đời của 
			người Việt Nam. Nhưng do ở Nam bộ có nhiều sông, rạch nên loại h́nh 
			này phát triển rất đa dạng và phong phú. Tác giả sách Gia Định thành 
			thông chí cho ta biết rằng: “Ở Gia- định chỗ nào cũng có ghe thuyền, 
			hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân 
			thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền 
			chật sông ngày đêm qua lại,...” (3)
 
			- Khoảng cuối thế kỷ 
			thứ 17, những lưu dân từ miền Trung, miền Bắc đă lợi dụng sức gió mà 
			xuôi thuyền vào phương Nam bằng loại ghe bầu. Nhưng đến địa h́nh 
			sông nước của Nam bộ th́ loại ghe này tỏ ra không phù hợp. V́ vậy, 
			những lưu dân sáng tạo ra nhiều loại ghe xuồng mới, phù hợp với địa 
			h́nh sông nước của vùng Nam bộ hơn. Ghe xuồng ở Nam bộ phát triển 
			nhiều kiểu đa dạng, phong phú. Từ những chiếc ghe, xuồng bơi, chèo, 
			chống, luồn lách trong kinh, rạch nhỏ đến những chiếc ghe, tàu vài 
			chục tấn, vài trăm tấn bằng động cơ máy nổ được sử dụng đan xen với 
			nhau tạo nên nét đặc trưng riêng của vùng sông nước phương Nam này.
 
			- Ghe ai đỏ mũi, trản 
			lườn
 
			- Phải ghe Gia Định 
			xuống vườn thăm em?
 
			- 
			                                 (Ca dao)
 
			- Ghe xuồng không chỉ 
			phục vụ việc đi lại và chuyên chở của con người c̣n là phương tiện 
			đánh bắt thủy hải sản. Cư dân Nam bộ có tập quán sống ven sông rạch, 
			có nguồn cá tôm rất dồi dào và phong phú, nên người ta dùng chiếc 
			ghe, chiếc xuồng của ḿnh để đánh bắt cá tôm: câu tôm, câu cá, giăng 
			lưới, cất vó, đặt lọp, xây ṇ, đóng đáy cọc, chài lưới, thả câu... 
			Chiếc xuồng, chiếc ghe, con đ̣ c̣n phục vụ cho việc buôn bán rồi kết 
			thành điểm chợ buôn bán, trao đổi hàng hóa trên sông, h́nh thành nên 
			các khu chợ nổi hội tụ đủ các loại người tứ xứ đến buôn bán, làm ăn. 
			Từ những người dân b́nh thường đến những kẻ tứ cố vô thân, rời bỏ 
			quê hương tha phương kiếm sống, với một chiếc ghe chất đầy hàng hóa, 
			nay họ ở chỗ này, mai chỗ khác, len lỏi vào tận những con kinh, con 
			rạch, những đường nước hẹp đem hàng hóa phục vụ đến tận nhà...
 
			- ***
 
			- Người Nam bộ đă sáng 
			tạo ra vô số từ ngữ có liên quan đến sông nước như: sông, ng̣i, 
			mương, máng, lạch, kinh, ao, hồ, rạch, xẻo, ngọn, rọc, dớn, láng, 
			lung, bưng, biền, đưng, đầm, đ́a, trấp vũng, trũng, tắc, gành, xáng, 
			doi, vịnh, bàu... rồi các từ miêu tả sự vận động của ḍng nước: nước 
			lớn, nước ṛng, nước rong, nước kém, nước trồi, nước sụt, nước dềnh, 
			nước giựt, nước ḅ, nước chảy, nước đứng, nước nằm, nước chừng, nước 
			nhửng, nước ương, nước chết, nước sát, nước rặc, nước cường, nước 
			ghẻ, nước nhảy, nước thả, nước ngược, nước trốt, nước xuôi, nước 
			rằm...
 
			- Nước rằm chảy thấu 
			Nam Vang
 
			- Mù u chín rụng sao 
			chàng biệt ly.
 
			- 
			                                  (Ca dao)
 
			- Trong giao tiếp hàng 
			ngày, người Nam bộ cũng dùng những từ ngữ đầy ấn tượng về văn hóa 
			sông nước, như: ch́m xuồng, câu tôm, ṃ tôm, vác cần tôm, quá giang, 
			lặn lội, lội bộ, lội, tắm nắng...
 
			- Sông nước Nam bộ 
			mênh mông, chằng chịt c̣n để lại một dấu ấn mạnh mẽ trong nghệ thuật 
			ngữ văn dân gian, mà tiêu biểu là trong ca dao, dân ca, ḥ, vè...
 
			- Ngày xưa, trên các 
			ḍng sông, kinh rạch ở Nam bộ, đêm đêm vẳng lên tiếng ḥ man mác của 
			những người chèo ghe, những khách thương hồ, những cô gái chở hàng 
			bông đi chợ, những anh chàng giăng câu, thả lưới. Môi trường sông 
			nước cũng chính là nơi giao lưu, gặp gỡ, trao đổi, ướm hỏi, tỏ t́nh:
 
			- Sông sâu sóng bủa 
			láng c̣
 
			- Thương em v́ bởi câu 
			ḥ có duyên.
 
			-           
			                          (Ca dao)
 
			- “H́nh ảnh sông nước 
			là cái khung làm tôn thêm vẻ đẹp cho những bức tranh về hạnh phúc 
			lứa đôi, làm nhân chứng cho các cuộc thề bồi hẹn ước, đóng vai tṛ 
			“gạch nối” giữa những mối t́nh. Sông nước cũng là nơi chứng kiến 
			những biệt ly đổ vỡ, những đợi chờ thất vọng, những đổi thay giữa 
			bến và thuyền.
 
			- Mồ cha đứa đốn cây 
			bần,
 
			- Không cho ghe cá đậu 
			gần ghe tôm”. (4)
 
			- Hay cụ thể hơn:
 
			- Ghe lui khỏi bến c̣n 
			dầm,
 
			- Người thương đâu 
			vắng chỗ nằm c̣n đây?
 
			- 
			                                   (Ca dao)
 
			- Sông rạch ở Nam bộ 
			đă có những mặt tích cực đáng kể đối với cuộc sống của người dân nơi 
			đây. Và chính sông rạch đă đóng một vai tṛ vô cùng quan trọng h́nh 
			thành nên tính cách, lối sống, quan niệm, tập quán... của con người 
			Nam bộ. 
 
			- TRẦN PHỎNG DIỀU
 
			- 
			---------------------
 
			- (1) Nguyễn Hiến Lê: 
			Bảy ngày trong Đồng tháp mười. NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội- 2002. 
			Tr. 34.
 
			- (2) Trịnh Hoài Đức: 
			Gia Định thành thông chí, tập hạ. Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo. 
			Nha Văn Hóa- Phủ- Quốc- Vụ- Khanh- Đặc- Trách Văn- Hóa xuất bản, Sài 
			G̣n - 1972. Tr. 14.
 
			- (3) Trịnh Hoài Đức: 
			Sđd. Tr.15.
 
			- 
			
			(4) Thạch Phương- Hồ Lê- Huỳnh Lứa- Nguyễn Quang Vinh: Văn hóa dân 
			gian người Việt ở Nam Bộ. NXBKHXH, Hà Nội- 1992. Tr. 64-65. 
			
 
		 
		   |