Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
   
Câu đố ở Đồng bằng sông Cửu Long

Câu đố là một dạng thức sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long. Nó phản ánh tâm tư t́nh cảm, thể hiện nhu cầu mong muốn thỏa măn tri thức, nhu cầu được vui chơi, giải trí của tầng lớp nhân dân lao động. Câu đố là một dạng sáng tác phản ánh các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan giữa vật đố (lời giải) với vật được miêu tả (câu đố). Sự liên tưởng trong câu đố thường bất ngờ, dí dỏm và mang nhiều màu sắc khác nhau.

Cư dân ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa trong quá tŕnh lao động mệt nhọc, họ ngoài việc đờn ca, ḥ hát, sáng tác ca dao, c̣n đặt ra câu đố. Những câu đố này đă làm cho tri thức của con người không ngừng được nâng lên, đồng thời cũng giúp họ giải khuây trong quá tŕnh lao động mệt nhọc. Đặc biệt, trong kho tàng câu đố ở Đồng bằng sông Cửu Long, câu đố được thoát thai từ ca dao khá nhiều. Người ta hay đặt câu đố trên cái nền của ca dao, hoặc là đặt câu đố theo h́nh thức của ca dao làm cho câu đố vần hơn, dễ thuộc hơn, hay hơn, giúp người ta dễ nhớ hơn. Điều này cũng chứng tỏ khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng độc đáo và cách vận dụng linh hoạt các thể thơ dân gian trong hệ thống câu đố của người dân lao động xưa:

Gươm vàng hai lưỡi gươm vàng

Thác th́ chịu thác, chứ buông nàng không buông.

(Con Sam)

Năm thằng cầm hai cái sào

Đuổi đàn trâu trắng chui vào trong hang.

(Ăn cơm)

Cây ǵ có quả không hoa

V́ chưng không lá chê già, chê non.

(Cây cân)

Thân ta không mẹ không cha

Vốn không họ hàng, ở nhà người dưng.

(Cây chùm gửi)

Người dân lao động xưa ở Đồng bằng sông Cửu Long rất mê truyện Tàu. V́ vậy, từ tư tưởng, điều nhân nghĩa đến tên các nhân vật trong tiểu thuyết Tàu đều hết sức quen thuộc đối với người dân nơi đây. Chẳng những trong ca dao, ḥ, vè, mà ngay cả câu đố ta cũng thường bắt gặp các câu chữ Hán, những cái tên thường mang ư nghĩa có tính cách nhân vật tiểu thuyết, như Khổng Minh th́ tượng trưng cho chính nghĩa, Tào Tháo là phi nghĩa...

Trên th́ Gia Cát cầu phong

Dưới thời lập trận hỏa công đánh Tào

Hai bên tả hữu xông vào

Đánh cho tào chạy ngă nhào xuống sông.

(Ḷ rèn)

Vô thủ, vô vĩ, vô nhĩ, vô tâm

Chốn ở sơn lâm hay ăn thịt sống.

(Cái thớt)

Gió lao xao trông ngọn thảo lay

Ban ngày dạo chốn tiền đài

Tối lại nằm kề vách ngọc

Bởi thương chúa nên thân tôi cồi cộc

Gẫm ḿnh tàn c̣n một nắm xương

(Cây chổi)

Phần lớn các câu đố ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa thường xoay quanh các sự vật, hiện tượng có liên quan đến đời sống hằng ngày của con người. Đó là những công việc hàng ngày, những đồ dùng quen thuộc, những hàng cây xung quanh ḿnh, những bờ rau, bụi cỏ...

Đầu rồng đuôi phụng loe hoe

Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con.

(Buồng cau)

Thân em ở bụi ở bờ

Chồng con không có mà nhờ tiếng kêu.

(Rau má)

Ông già ngồi cạnh bờ sông

Có trăm con mắt mà không thấy đường.

(Trái khóm)

Một cột mà chín mười kèo

Vải xanh vải đỏ mà treo bốn bề.

(Cây dù)

Tṛn tṛn như lá tía tô

Rớt xuống ao hồ đầu ướt đuôi khô.

(Cái vá)

Chặt đầu nối nghiệp tổ tiên

Ép mỡ lấy dầu, xương thịt bỏ đi.

(Cây mía)

Hiên ngang mà đứng giữa đồng

Cầm cờ tập trận, rộn ràng tiến quân.

(Người chăn vịt)

Người nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, mà cuộc sống nông nghiệp th́ phụ thuộc rất nhiều vào các hiện tượng tự nhiên. V́ vậy, các hiện tượng tự nhiên đă để lại một dấu ấn sâu sắc trong tâm thức của người dân nơi đây, phản ánh khá rơ trong các câu đố dân gian:

Cây cao ngàn trượng, lá rụng tứ tung

Nấu thời được, nướng thời không.

(Trời mưa)

Thoạt đẻ th́ mọc hai sừng

Đến khi lưng chừng th́ ễnh bụng ra.

(Trăng đầu và giữa tháng)

Xanh xanh, đỏ đỏ, vàng vàng

Bắc cầu hoa lư, nằm ngang giữa trời.

(Cầu vồng)

Đặc biệt, ở Đồng bằng sông Cửu Long, có những sự vật, sự việc, hiện tượng lại được nêu thành nhiều câu đố khác nhau. Chẳng hạn:

Cùng nói về mặt trăng th́ có:

- Trên trời như lá tía tô

Đi biển, đi hồ nó cũng đi theo.


- Có ai mặt đẹp như hoa

Từ bên nước Sở sang qua nước Tần

Mười lăm, mười sáu th́ về

Từ ba mươi tuổi chẳng hề văng lai.

Cùng nói về cây xương rồng:

- Sanh ở đất, danh ở trời

Thịt da không có, sống đời cổ kim.


- Danh tôi vốn ở trên trời

Sanh ra cái cốt ở nơi dương trần.

Cùng nói về cây dừa:

- Cha mẹ có tóc, để con trọc đầu

Cha mẹ sống lâu, để con chết chém.


- Một cột nhà mà chín mười kèo

Chồng th́ không có mà đeo cả đùm.

Đặc biệt, người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đă đặt ra những câu đố hết sức bóng bẩy, mang tính trí tuệ từ các vật b́nh thường. Dạng câu đố này đ̣i hỏi người giải phải thông minh, nhanh nghĩ và đặc biệt là phải có tri thức mới mong giải được:

Chuột kêu chút chít trong rương

Anh đi cho khéo, đụng giường mẹ hay

(Bánh ḅ)

Hỏi người ngồi dựa loan pḥng

Tóc mây dợn sóng có chồng hay chưa?

(Bánh hỏi)

Dĩnh dịch tṛn tṛn, khô ḍn ướt dẻo

Dù c̣n tí tẹo, cũng cho rằng nhiều

(Bánh đa)

Sông tṛn vành vạnh, núi lạnh như tiền

Con gái nhà tiên, đâm đầu mà lặn

(Bánh trôi nước)

Người dân Đồng bằng sông Cửu Long có một kho truyện tiếu lâm rất phong phú. Dấu ấn tiếu lâm này c̣n thể hiện rơ qua những câu đố tục. Sự liên tưởng của con người xoay quanh các vấn đề sinh lư, khiến trong câu đố có yếu tố tục. Xu hướng này có một nguồn gốc xă hội như tiếu lâm, tuy nhiên không mang nội dung xă hội mà thường chỉ có tác dụng gây cười. H́nh tượng câu đố trở nên tinh nghịch, hấp dẫn, đặc biệt bất ngờ khi các câu đố rất tục lại có lời giải hết sức thanh:

Con ai trắng tựa như ngà

Đem ra mà tắm giữa sông giang hà

Tắm rồi phải cởi áo ra

Ḿnh trắng như ngà, đầu đội nón xanh.

(Cây giá)

Hai tay nắm lấy hai tay

Trèo lên cái bụng, hai chân cḥi cḥi.

(Đạp xe)

Phận em là gái cô bác ơi

Kẻ đi qua cọ ba bốn cái

Người đi lại cọ chín mười lần

Em không cho, mích ḷng cô bác

Em cho cọ rồi ướt áo ḿnh em.

(Cục đá mài)

Ngoài ra, người dân lao động ở Đồng bằng sông Cửu Long c̣n sử dụng h́nh thức chơi chữ trong câu đố của ḿnh:

Ông lục ổng lội ngang sông

Cái đầu ổng ướt, cái ḿnh ổng khô.

(Lục b́nh)

Hai tay mang gói thẳng xông

Má kêu mặc má, theo chồng cứ theo.

(Cá bạc má)

Câu đố là một dạng sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa. Ngày xưa, trong quá tŕnh lao động mệt nhọc, bà con ta có nhu cầu nghỉ ngơi, có nhu cầu ca hát, ḥ... để giải trí, và cũng là để bày tỏ ḷng ḿnh. Bên cạnh đó, họ c̣n đặt ra rất nhiều câu đố để thử tài nhau, để vui cười sau những giờ lao động ră rời. Và đó cũng là để thỏa măn nhu cầu tri thức của ḿnh. V́ vậy, nói ǵ th́ nói, câu đố vẫn là một loại h́nh sinh hoạt văn hóa dân gian rất có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long xưa cũng như nay.

Trần Ngu Lạc


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nhiều tác giả, Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Giáo Dục - 1999.

2. Dương Thanh Thanh, Câu đố, một tṛ chơi trí tuệ dân gian. Tạp chí xưa và nay, số 77B tháng 7 năm 2000.
 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17