Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
   
T́nh yêu trong văn học dân gian Việt Nam


» Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải 

1. T́nh yêu trong văn học dân gian Việt Nam 

Sự xung đột giữa chủ nghĩa phong kiến VN và chủ nghĩa cá nhân Tây phương do ảnh hưởng Tây hóa sau khi người Pháp truyền bá tư tưởng họ vào VN tạo nên một phong trào đổi mới đứng đầu là nhóm Tự Lực Văn Đoàn ở Hà Nội và đối kháng là những nhà văn c̣n trĩu nặng ảnh hưởng xă hội cũ như Nguyễn Công Hoan làm cho người ta thêm nghĩ rằng xă hội VN chịu ảnh hưởng Nho giáo nặng nề, qua đó t́nh yêu giữa trai gái bị ngăn cấm triệt để, đám thanh niên, nhất là con gái chẳng có một chút tự do nào trong chuyện yêu đương hay chọn người hôn phối. Câu tục ngữ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” trở thành câu nói đầu cửa miệng của những bậc cha mẹ muốn hoàn toàn kiểm soát và điều khiển việc hôn nhân của con cái. Nó cũng là câu nói đầu cửa miệng của những người muốn chống lại chế độ phong kiến hà khắc trong việc hôn nhân. 

Thực ra, chỉ đối với một số gia đ́nh trung lưu và thượng lưu trong xă hội cũ - một số chứ không phải tất cả, muốn ǵn giữ cái mà họ là “gia phong” mới nắm lấy quyền quyết định hôn nhân con cái, mới có việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà thôi. 

Khi con cái khôn lớn, cha mẹ muốn chọn cho con người hôn phối làm thế nào để con cái có hạnh phúc về sau. Có lẽ đó là ư niệm trước nhất của họ. Nhưng hạnh phúc đó như thế nào? Đó là câu hỏi lớn với nhiều tiêu chuẩn chọn lựa mà tôi sẽ bàn trong đề tài hôn nhơn. Có lẽ những tiêu chuẩn đó làm nảy sinh ra việc ngăn cấm con cái yêu đương trước khi thành vợ chồng. 

Từ những yêu cầu khắt khe đó, người con trai, con gái lớn lên sẽ không có t́nh yêu trước hôn nhân? 

Trong những gia đ́nh như tôi vừa tŕnh bày ở trên, điều đó khá rơ. Dĩ nhiên, không thiếu những trường hợp ngoại lệ như chuyện t́nh giữa Phạm Thái và Trương Quỳnh Như trong lịch sử văn học ta. Ngoài ra, sự tích Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh trong lịch sử văn học Trung Hoa cũng có ảnh hưởng nặng nề trong văn học cũng như trong xă hội Việt Nam. 

Ngay trong văn học bác học, một thứ văn học dành cho người có học, có nghĩa là trong xă hội cũ, ít ra, họ cũng thuộc từ giai cấp trung lưu trở lên th́ sự kiện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” là hẳn nhiên. Bên cạnh đó, con trai, con gái vẫn cứ yêu nhau mà cha mẹ không biết, có khi trước hay ngoài cả hôn nhơn. Điều nầy rất rơ ràng. 

Chẳng hạn như với cô Kiều trong “Truyện Thúy Kiều” tác phẩm nổi tiếng bậc nhất trong văn học chữ Nôm th́ gia tư Kiều thuộc “thường thường bậc trung” có nghĩa là thuộc giới trung lưu, và “thuộc ḍng nho gia”. Mặc dù cha mẹ có dạy “tường đông ong bướm đi về mặc ai” nhưng chính Kiều đă yêu ngay chàng Kim (Kim Trọng) khi hai người mới gặp nhau lần đầu, rồi “hẹn ḥ vườn thúy”, thậm chí Kiều c̣n lợi dụng lúc cha mẹ vắng nhà, “xăm xăm băng lối vườn khuya một ḿnh” sang nhà Kim Trọng, cắt tóc thề non hẹn biển, v.v... 

Trong giới b́nh dân sự kiện ấy có khác đi chăng? 
Quả thật là không! 

Đọc những tác phẩm như “Đồng quê” của Phi Vân, giải thưởng Gia Long năm 1943, những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như “Ngọn cỏ gió đùa”, “Cha con nghĩa nặng” v.v... nói về đời sống dân quê ở trong Nam hoặc “Nhà quê” của Ngọc Giao, “Quê người” của Tô Hoài, “Sợ sống” của Lê Văn Trương, v.v... và một số bài thơ của Nguyễn Bính, nói về đời sống người dân quê ở miền Bắc, ta thấy người dân quê Việt Nam vượt ra ngoài cái mà người ta gọi là “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.” Họ yêu nhau rất tự nhiên, cả trước khi cha mẹ biết và trước khi cưới. Trong cuốn tiểu thuyết “Tỵ Bái” của Nguyễn Hoạt, ông mô tả cảnh sống rất trụy lạc của một làng quê ngoài Bắc, cảnh mà trong truyện Kiều gọi là “Trên bộc, trong dâu”. Chủ ư của Nguyễn Hoạt là muốn nói lên cảnh sa đọa, bóc lột và bất công của xă hội Việt Nam thời tiến chiến, là chỗ đất tốt để Cộng Sản dễ gieo mầm khởi loạn. 
Khung cảnh thiên nhiên trữ t́nh và môi trường xă hội nông nghiệp dễ làm nẩy sinh t́nh yêu. Trước hết, cảnh thiên nhiên nào mà chẳng đẹp! Một khung trời xanh biếc, một chiều vàng gió lộng với những tầng mây rực rỡ huy hoàng, cảnh đồng ruộng mênh mông với tiếng lúa ŕ rào, những ḍng sông hiền ḥa lặng lẽ, v.v... tác động không ít lên t́nh yêu thiên nhiên của người ta, khiến người ta mở rộng ḷng ra với đời. Thứ hai, việc đồng áng khiến trai gái dễ gần gũi, tiếp xúc với nhau, không chỉ có khung cảnh “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” mà thôi mà trai gái làm chung công việc đồng áng trên một thửa ruộng, trên một cánh đồng, trong sân phơi, trong vườn nhà. Công việc đồng áng nặng nhọc và cần nhiều nhân công trong một thời gian nhất định. Ví dụ: Khi cấy, gặt người ta cần tập trung nhiều người và công việc phải kết thúc trong một thời gian ngắn ngủi. Do đó, người nhà quê phải làm “vần công”, nhà nầy giúp nhà kia, rồi trao đổi luân phiên như thế. Hay là các bạn thợ cấy, thợ gặt đi làm mướn từ làng nầy qua làng khác. Đó là lúc trai gái làm việc chung với nhau, đùa giỡn, ca hát. Việc ca hát thịnh hành nhất là vào những đêm trăng giă gạo, trai gái chia hai phe hát đối đáp, v.v... Ngoài ra, trai gái nhà ở kế liền nhau cũng là cơ hội hai người gặp gỡ, chuyện tṛ, dẫn dắt đến t́nh yêu. 

Sau đây, viện dẫn vài câu ca dao chứng minh những trường hợp trên: 
Ví dụ 1: 
Hỡi cô gánh nước quang mây 
Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng 
Cây ngô đồng cành cao cành thấp 
Ngọn ngô đồng là dọc lá ngang 
Quả dưa gang ngoài xanh trong trắng 
Quả mướp đắng ngoài trắng trong vàng 
Từ ngày anh gặp mặt nàng 
Ḷng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ
 

Ở thôn quê, con gái phải ra giếng hoặc ra sông gánh nước. Nước giếng thường để uống, nước sông để tắm giặt hay tưới cây. Người con gái gánh nước đi qua chỗ người con trai. Anh chàng giả xin nước tưới cây ngô đồng. Thực ra, anh ta chỉ mượn ư cây ngô đồng để tỏ t́nh cùng nàng: 
Quang là tiếng Bắc, tiếng Trung và Nam gọi là gióng. Gióng làm bằng cây mây. Anh ta dùng h́nh ảnh cây ngô đồng cành cao cành thấp hay lá ngô đồng chiếc dọc chiếc ngang, cũng như trái dưa ngoài vỏ trong ruột khác nhau. Tất cả đều giống như t́nh yêu của anh đối với nàng ngổn ngang nhiều thứ. 

Ví dụ 2: 
Hỡi anh đi đường cái quan 
Dừng chân đứng lại em than đôi lời 
Đi đâu vội mấy anh ơi 
Cái quần cái áo như người nhà ta 
Cái ô em để trong nhà 
Khen ai mở khóa đưa ra cho chàng 


Đây là lời hát diễu không hẳn là của người con gái mà có thể là bạn cô ấy. Hai người đang làm công việc đồng áng (cấy lúa hay gặt) bên đường cái quan. Đường cái là đường lớn (cái=lớn), đường của quan đi, đường chạy ngựa trạm đưa tin tức của các quan hay triều đ́nh. Người con gái giả bộ nh́n quen qua cái áo cái quần của người đi đường đang mặc, và cả cái ô (dù) người ấy đang cầm. Ai đem dù ra cho chàng đây, ư muốn trêu ghẹo rằng chính người bạn gái đang cùng làm việc đă đưa cho chàng dùng. 

Ví dụ 3: 
Nàng về giă gạo ba trăng 
Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm 
Nước Cao Bằng ngâm th́ trắng gạo 
Anh biết em có liệu được chăng 
Trần trần như cuội cung trăng 
Biết rằng cha mẹ có bằng ḷng không 
Để anh chờ đợi uổng công 


Người con trai nói với người con gái hễ hai người lấy được nhau th́ đẹp đôi lắm, giống như lúa ba trăng ngâm với nước Cao Bằng th́ gạo trắng lắm. Lúa ba trăng là lúa trồng ba tháng th́ gặt. Nước Cao Bằng có nghĩa là nước đầu sông Hồng Hà, không đỏ như ở hạ lưu. Thế nhưng anh ta th́ nghèo, trần lưng không có áo mặc như chú cuội ngồi chăn trâu trên mặt trăng. Anh ta sợ cha mẹ cô gái chê nghèo mà không gă, khiến anh ta phải chờ đợi uổng công.

Ví dụ 4: 
Nhớ ai con mắt lim dim 
Chân đi thất thểu như chim tha mồi 
Nhớ ai hết đứng lại ngồi 
Ngày đêm tơ tưởng một người t́nh nhân
 

Khi yêu đương, người ta nhớ nhau là một điều rất thường. H́nh ảnh người yêu “Con mắt lim dim” và “đi thất thểu” làm người ta nhớ, nhớ ngày nhớ đêm đến người t́nh. Người ta không thể làm việc ǵ cho xong v́ nhớ quá, “hết đứng lại ngồi”. 

Nói về nhớ người yêu, ca dao c̣n nhiều câu như sau: 
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi 
Như đứng đống lửa như ngồi đống than 


T́nh nhớ là t́nh nóng. Nó không lạnh bao giờ. Nhớ làm cho ḷng người ta “như lửa đốt”, “như đứng đống lửa như ngồi đống than.” Nhớ th́ vẫn nhớ nhưng phải giấu kín cha mẹ, sợ bị rầy la: 
Nhớ ai em những khóc thầm 
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa 
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ 
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai 


Nói về sự nhớ nhung của trai gái yêu đương, có lẽ bài ca dao sau đây là một trong những bài hay nhất: 
Khăn thương nhớ ai 
Khăn rơi xuống đất 
Khăn thương nhớ ai 
Khăn vắt lên vai 
Đèn thương nhớ ai 
Mà đèn không tắt 
Mắt thương nhớ ai 
Mắt ngủ không yên 


Bài ca dao dưới dạng câu hỏi nhưng thực ra đó là câu tán thán. Khăn vắt lên vai mà hờ hững rớt xuống đất là v́ nhớ! Đèn thương nhớ mà không tắt v́ “đêm đêm thắp ngọn đèn dầu, Ngọn đèn dầu khô cạn nước mắt nầy không khô”. Thắp đèn ngồi nh́n, nhớ người t́nh và khóc. Dù có tắt đèn đi ngủ cũng không ngủ được (Mắt ngủ không yên). 

Những h́nh ảnh khăn vắt vai hờ hững, chong đèn ngồi nhớ, hay sững sờ quên việc là điều rất thường thấy trong t́nh trường. Người đàn bà nhà quê thường có khăn vắt vai để lau mặt, lau mồ hôi cho tiện khi đang làm công việc. Trong nam, họ thường dùng khăn rằn. Tục dùng khăn rằn ảnh hưởng từ chiếc khăn rằn của người Miên đồng bằng sông Cửu Long. 

Người ta cũng nhớ tới lời thề “nguyện ước ba sinh”, sợ xa cách và sợ người yêu đi lấy chồng khác: 

Ví dụ 5: 
Nhớ lời nguyện ước ba sinh 
Xa xôi ai có biết t́nh chăng ai 
Khi về hỏi liễu Chương Đài (*) 
Cành xuân đă bẻ cho ai một cành 
Có yêu anh th́ bẻ quách cho anh 


(*) Hàn Hủ đời Đường (Trung Hoa) có người vợ tên là Liễu thị. Ông đi làm quan xa để vợ ở lại tại phố Chương Đài, kinh thành Trường An. Viết thư, cho vợ: “Chương Đài liễu. Tích nhật thanh thanh kim tại phủ. Giả ưng phan chiết tha nhân thủ.” (Cây liễu Chương Đài xanh xanh ngày xưa nay c̣n không hay có kẻ khác bẻ mất rồi). Giặc Phiên chiếm Trường An bắt mất Liễu thi. Tướng Hứa Tuấn bắt lại được, nhà vua bèn trao về lại cho Hàn Hủ.

Ví dụ 6: 
T́nh cờ mà gặp nhau đây 
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần 
May xong, anh trả tiền công 
Bao giờ lấy chồng anh đỡ vốn cho 
Giúp em một thúng xôi ṿ 
Một con lợn béo, một ṿ rượu tăm 
Giúp em đôi chiếu em nằm 
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo 
Giúp em quan tám tiền cheo 
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
. 

Người con trai giả bộ làm quen để tỏ t́nh với người con gái. Những thứ anh ta gọi là “giúp”, thực sự đó là quà cưới của chàng rể sắm sửa cho cô dâu. Dù yêu nhau trước hôn nhân nhưng cũng cưới hỏi đầy đủ lễ nghi đàng hoàng. 

Ví dụ 7: 
Trèo lên cây bưởi hái hoa 
Bước ra vườn cà hái nụ tầm xuân 
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, 
Em có chồng em tiếc lắm thay 
Ba đồng một miếng trầu cay 
Sao em không hỏi những ngày c̣n không 
Bây giờ em đă có chồng 
Như chim vào lồng như cá cắn câu 
Cá cắn câu biết đâu mà gở 
Chim vào lồng biết thuở nào ra 


Đây là lời đối đáp giữa hai người con trai và con gái nhà ở kế cận nhau. Người con trai yêu thầm người con gái, không dám bày tỏ. Khi người con gái đă lấy chồng chàng mới dám thố lộ t́nh yêu. Khi đó th́ đă trễ rồi, v́ cô ta đă có chồng, giống như “chim vào lồng”, như “cá cắn câu.” 

Ví dụ 8
: 
Trăm năm diều(*) nỗi hẹn ḥ, 
Cây đa bến cộ (*) con đ̣ khác đưa 
Cây đa bến cộ c̣n lưa(*) 
Con đ̣ đă thác (*) năm xưa tê (*) rồi
. 

(*) Tiếng địa phương Trị Thiên: diều=nhiều. Cộ=cũ. C̣n lưa=C̣n lại. Thác=chết (tiếng Việt cổ). Tê=kia. 
Truyện kể ngày xưa có anh học tṛ trên đường về kinh đô Huế ứng thí, gặp cô lái đ̣ bên sông. Hai người yêu nhau và thề hẹn. Anh học tṛ thi hỏng, lưu lạc xứ người mấy năm. Đến khi trở về bến sông cũ th́ người con gái không c̣n giữ lời thề cũ nữa, đă đi lấy chồng.

Ví dụ 9: 
Cây đa trốc gốc 
Thợ mộc đang cưa 
Gặp em đứng bóng ban trưa 
Trách trời vội tối phân chưa hết lời.
 

Cây đa thường trồng ở đầu làng, đầu đ́nh, nơi linh thiêng, trai gái đến đó thề hẹn cùng nhau. Nay “cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa”, có nghĩa là lời thề không c̣n, mối t́nh bị chia xẻ. Chàng gặp cô nàng đă trễ tràng (ban trưa), chưa kịp tỏ bày hết tâm sự th́ nàng đă đi lấy chồng hay qua đời sớm (trời vội tối).

Ví dụ 10: 
Cầu Trường tiền (*) sáu vài mười hai nhịp 
Em qua không kịp tội lắm người ơi 
Chẳng thà không biết thời thôi 
Biết rồi mỗi kẻ mỗi nơi cũng buồn.
 
(*) Cầu Trường Tiền hay Tràng Tiền ở Huế, kinh đô đời Nguyễn, nối hai bờ sông Hương.

Cầu nối liền hai bờ để hai người yêu đến với nhau. Nhưng một người qua không kịp cầu, có nghĩa là người kia đă kết hôn (cưới vợ hay lấy chồng). Yêu nhau mà không lấy được nhau chỉ làm cho thêm buồn ḷng. 
Hỡi anh đi đường cái quan, 
Dừng chân đứng lại em than đôi lời


Đây là lời người con gái muốn tỏ t́nh cùng con trai 
Hỡi cô tát nước bên đàng 
Cớ sao múc ánh trăng vàng đổ đi?
 

Lời người con trai trêu ghẹo và muốn tỏ t́nh cùng cô gái 
Hết mùa “toóc” rạ (*) rơm khô 
Bạn về quê bạn biết mô mà t́m 

(*) “Toóc” hay rạ, phần dưới của cây lúa sau khi đă gặt (phần trên của cây lúa, có bông, gọi là rơm), dùng thay củi hay đốt để làm phân. 

Hết mùa gặt, “toóc” rơm ngoài đồng đă khô, lúc đó, “bạn” (người yêu) về quê (sau khi gặt thuê), không c̣n gặp nhau được nữa. 
Qua cầu ngả nón trông cầu 
Cầu bao nhiêu dịp dạ em sầu bấy nhiêu
 

Cầu nối liền hai bờ, cho người hai bên sông qua lại gặp gỡ và yêu đương. Nay cầu vẫn c̣n mà t́nh không c̣n, cho nên cầu dài bao nhiêu th́ ḷng buồn bấy nhiêu. 
Qua đ́nh ngả nón trông đ́nh 
Đ́nh bao nhiêu ngói dạ thương ḿnh bấy nhiêu
. 

Đ́nh làng, chỗ thờ thành hoàng, người xây dựng lên làng đó, trai gái thường đến đó thề bồi. Nay t́nh yêu tan vỡ, trông đ́nh, nhớ lời thề cũ, càng thương ḿnh và thấy nhớ yêu người cũ. 
Thương nhau cởi áo cho nhau 
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay 


T́nh yêu hai người khá mănh liệt, cô nàng dám cởi áo cho chàng để chàng giữ cái hơi. Rồi về nhà nói dối với mẹ. 
Tóc mai sợ vắn sợ dài 
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn n
ăm 

Tóc mai là những sợi tóc ngắn ở trán, thường trang điểm cho khuôn mặt thêm đẹp, duyên dáng. Có thể đă cắt tóc nầy mà thề nguyện với nhau. Tóc c̣n đó mà không lấy nhau được, t́nh yêu có bao gờ quên!? 
Lưu ư bạn đọc. Bây giờ nhiều người thường sửa chữ thương thành chữ yêu (“Thương nhau cởi áo...” thành “Yêu nhau cởi áo... ), như vậy là sai. Người xưa ít khi dùng chữ yêu mà hay dùng chữ thương. “Anh có thương tui không?” hoặc “Thương chàng lắm lắm chàng ơi.” “Thương nhau lắm, cắn nhau đau.” Chữ yêu là chữ của người có học, hay thường dùng trong văn chương. Giới b́nh dân dùng chữ thương. Thương là hy sinh, là cho mà không đ̣i lại, không so sánh nhiều ít, hơn thua, không giống như Xuân Diêu “Yêu là chết ở trong ḷng một ít” và “Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu!” 

Ngoại trừ một số bần nông, cố nông, sự cách biệt trong xă hội nông nghiệp Việt Nam không quá xa nên việc hôn nhân không nhiều trở ngại về giai cấp, giàu nghèo như trong xă hội phong kiến Ây Tây. Vả lại, mục đích chính của hôn nhân là hạnh phúc lứa đôi nên điều cần thiết để thành công trong đời sống vợ chồng không phải là giàu có hay địa vị mà chính là sự ḥa thuận yêu thương nhau của hai người. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.” Từ ư nghĩa đó, quan điểm hôn nhân của người nhà quê Việt Nam thường ít khi khắt khe về giàu nghèo hay giai cấp. Chẳng hạn như trong truyện cổ tích “Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung” th́ Chữ Đồng Tử là một anh chàng đánh cá nghèo khổ đến nỗi không có cả cái khố mà mặc, trong khi đó Tiên Dung là một công chúa. Tuy nhiên, hai người vẫn yêu nhau ngoài ư kiến của vua cha (Chữ Đồng Tử lúc gặp công chúa th́ đă mồ côi cả cha lẫn mẹ). Trong đời sống vợ chồng họ thành công vượt bực v́ thuận ḥa với nhau. Theo quan điểm chung của người Việt, t́nh yêu đó, hôn nhân đó là do Trời sắp đặt. 

Trong khi đó th́ chuyện t́nh giữa Trương Chi, anh thuyền chài và Mỵ Nương con quan tể tướng th́ tan vỡ. Mỵ Nương yêu tiếng hát của Trương Chi nhưng khi thấy Trương Chi th́ nàng thất vọng v́ chàng xấu xí (mặt rỗ) và nghèo. Yếu tố chính làm tan vỡ t́nh yêu là v́ chàng xấu trai quá chứ chưa chắc v́ chàng nghèo. Ngược lại, Trương Chi yêu Mỵ Nương v́ nàng đẹp chứ không phải v́ nàng là con quan tể tướng. Do đó, qua truyện nầy, yếu tố mỹ thuật (đẹp xấu) trở thành vấn đề quan trọng trong t́nh yêu. Tuy nhiên, Trương Chi vẫn yêu thầm cho đến chết và trái tim hóa đá. Yếu tố làm t́nh yêu tan vỡ là v́ Trương Chi xấu trai hay v́ sự xa cách giàu nghèo, người dân thường và gia đ́nh quan to?! 

Suy cho cùng, đẹp vẫn thường là yếu tố không kém quan trọng trong t́nh yêu và hôn nhơn. Do đó, có câu tục ngữ an ủi cho ai lấy chồng “xấu trai”: “Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai.” 
Trong truyện “Bích câu kỳ ngộ” (Tú Uyên -Giáng Kiều) có một yếu tố quan trọng khác thường thấy trong t́nh yêu của người Việt Nam. Đó là: “Trai tài. Gái sắc”. Tú Uyên học giỏi, có nghĩa là văn hay chữ tốt, Giáng Kiều là nàng tiên, -không có nàng tiên xấu bao giờ. Hai người yêu nhau trước khi thành hôn. 

Tài, ngoài nghĩa văn hay chữ tốt c̣n có nghĩa là người chỉ huy. Người con gái ngoài cái đẹp c̣n phải buôn bán giỏi (Một yếu tố khác trong công-dung-ngôn-hạnh). Chẳng hạn “Trai khôn t́m vợ chợ đông, Gái khôn t́m chồng giữa đám ba quân.” 

Truyện Từ Thức lại cho thấy một tiêu chuẩn khác nữa trong t́nh yêu: Tính hào hiệp của người đàn ông. Từ Thức cầm áo lấy tiền để chuộc nàng tiên khỏi bị bắt tội v́ làm găy cành hoa. Nàng tiên trong truyện “cảm” Từ Thức, trước hết không phải v́ Từ Thức đẹp trai. Trong truyện không mô tả Từ Thức đẹp hay không đẹp. Cũng không phải v́ Từ Thức học giỏi và làm quan. Hai người gặp nhau rất t́nh cờ, không ai biết quá khứ của ai. Nàng yêu chàng v́ chàng có ḷng cao thượng, hào hoa. Ngay khi ấy, có thể Từ Thức thấy nàng đẹp nhưng chưa yêu. Chàng từ quan trở về quê cũ không phải v́ người chàng yêu mà v́ chàng chán cảnh quan trường. Chàng đi “ngao du sơn thủy” không phải để t́m nàng mà v́ chàng thấm nhuần đạo Tiên (Lăo). Chàng gặp lại nàng là do sự sắp xếp của tiên mẫu, của Trời. Nếu chàng yêu thắm thiết nàng, có lẽ Từ Thức sẽ không xin vợ trở về dương thế. Sự kiện nầy làm cho mối t́nh hai người tan vỡ. Từ Thức không bao giờ gặp lại vợ nữa. 

Chủ nghĩa cá nhân không phát triển mạnh trong xă hội Việt Nam. Yêu đương là điều tự nhiên của trai gái, nhưng mục đích cuối cùng của nó là hôn nhân. V́ vậy, họ yêu nhau không phải chỉ để yêu chơi, một tṛ chơi mà rất tôn trọng mối t́nh của họ. Do đó, trong t́nh yêu, người Việt Nam rất hay thề bồi. Ư nghĩa lời thề là giữ trọn ḷng chung thủy, không quên nhau, không bỏ nhau, v.v... Nơi họ thường đến thề thường là nơi thờ phượng linh thiêng, chẳng hạn như ở đ́nh làng là nơi thờ thành hoàng, người lập ra làng ấy, cây đa bên đ́nh hay ở đầu làng, ở đền chùa miếu mạo hay chỉ vào vầng trăng mà thề như trong truyện Kiều. Có khi những lời thề đó rất độc, đem tính mạng và danh dự để bảo đảm cho lời thề của ḿnh. Từ ư nghĩa đó, mỗi người chỉ có một nhân t́nh mà thôi. 

Ca dao có câu: 
Sông dài mà lắm đ̣ ngang, 
Em nhiều nhân ngăi, em mang oán thù
. 

Không phải là không có sự phân biệt trong t́nh yêu của người Việt Nam. Khi người con gái đi lấy chồng, họ thuộc về gia đ́nh chồng, không c̣n thuộc gia đ́nh họ nữa. Lâu lâu, người con gái mới về thăm lại cha mẹ ḿnh c̣n thường th́ bận bịu lo công việc nhà chồng. Đặc biệt khi có con cái th́ họ chẳng có th́ giờ để về thăm cha mẹ nữa. Lấy chồng người cùng làng, hay gần làng c̣n có dịp lui tới. Lấy chồng xa, việc đi lại khó khăn, việc thăm viếng cha mẹ càng khó khăn. 

Câu ca dao sau đây bảy tỏ ḷng trông ngóng, chờ mong của một người vợ lấy chồng ở xa: 
Sáng trăng suông vằng vặc cái đêm hôm rằm 
Nửa đêm và sáng trăng bằng ngọn tre 
Em trót yêu anh cho trọn một bề 
Để anh thấp thoáng ngồi kề bóng trăng 
Sự t́nh nầy ai thấu cho chăng! 
Để anh ngồi tựa bóng trăng chịu sầu 
Gánh tương tư một dịp đôi ba cầu 
Bắc Nam đôi ngă chịu sầu đôi nơi 
Con chim khôn chết mệt v́ mồi 
Chim kêu réo rắt gọi người t́nh chung 
Hai chúng ta vấn vít sợi tơ hồng 
Nồi đồng th́ úp vung đồng 
Con gái xứ Bắc lấy chồng Đồng Nai 
Giậm chân xuống đất kêu trời 
Chồng tôi vô Quảng biết đời nào ra
 

Tục ngữ có câu “Nồi nào úp vung nấy” có nghĩa là cần có sự đồng nhất giữa hai vật, hai người, sự hài ḥa, ḥa hợp giữa hai bên. Trong ư nghĩa của câu ca dao trên th́ người Bắc nên lấy chồng miền Bắc hay người Nam lấy chồng người Nam. Vô Quảng không hẳn chỉ là tỉnh Quảng Nam ngày nay. Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, xứ Nam tức là đạo Quảng Nam, là đằng Trong, là từ sông Gianh trở vào. Ngày xưa, phương tiện di chuyển khó khăn, việc đi lại hai miền rất nhiều cách trở, cho nên lấy chồng xa xứ là một điều rất trở ngại làm cho hai vợ chồng nhiều khi phải sống xa nhau, người chồng đi xa lâu không thấy về. 

Điều cấm kỵ thứ hai là kết hôn với những người làm nghề ca xướng. Tục ngữ có câu “Xướng ca vô loại.” Trong truyện Nguyễn Kỳ và người ca nữ, cuối cùng hai người không lấy dược nhau cũng bởi lư do nầy. 
Nh́n chung, Việt Nam là một xă hội tôn trọng luân lư, có khi v́ ảnh hưởng Nho giáo, nhất là Tống Nho, nên có nghiêm khắc trong vấn đề quan hệ nam nữ, nhưng cũng không quá khắt khe đến độ có thể triệt tiêu t́nh cảm của con người, nhất là t́nh yêu trai gái là t́nh yêu tự nhiên trong cuộc sống của con người và sự tồn tại của nhân loại. Trong viễn tượng đó, trong con người Việt Nam, nhất là ở nông thôn, t́nh yêu lứa đôi nảy nở rất tự nhiên, trong sáng và chung thủy, không thiên về vật dục như trong xă hội Âu Mỹ. T́nh yêu của họ có mục đích rơ rệt là nhằm tiến tới hôn nhân và xây đắp tương lai, thiên về trách nhiệm đối với gia đ́nh và xă hội, chứ không quá trọng về mục đích hưởng thụ khoái lạc như người Âu Tây. 

Tuy nhiên, qua việc Âu hóa và qua nhiều cuộc chiến tranh lâu dài, mục đích hướng thượng đó ngày nay trong xă hội Việt Nam bị vẩn đục đi rất nhiều. Đó là một điều đáng tiếc vậy. 

hoànglonghải

 


 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17