Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
T́nh yêu, hạnh phúc trong ca dao – dân ca Quảng Nam

thaonguyenbt2010

Là một bộ phận cấu thành của văn học dân gian, ca dao – dân ca xứ Quảng chứa đựng trong bản thân những yếu tố truyền thống vững bền,đồng thời, cũng xác lập được những sắc thái riêng của một địa bàn cư dân giàu năng lực, có tính cách mạnh mẽ và có khát vọng vươn tới những chân trời hạnh phúc, tri thức mới. Ca dao – dân ca xứ Quảng là bức tranh sinh động phản ánh trung thực ḍng chảy liên tục của ca dao dân ca Việt Nam.

Ca dao – dân ca xứ Quảng thường được sáng tác dựa theo cái khung có sẵn. Dù vậy,câu ca dao -dân ca mới sáng tác vẫn hay. Những t́nh cảm mới được lồng vào trong những khung chung có t́nh chất tiêu chuẩn mà mọi người đă thừa nhận làm cho câu ca dao dân ca dễ trở thành “của chung”. (Đặng Văn Lung, trong Văn học Dân gian, những công tŕnh nghiên cứu, Nxb Giáo Dục, TP.HCM, 1999, tr. 298)

Ca dao – dân ca xứ Quảng có tính dị bản. Đây là một hiện tượng lạ lùng, độc đáo, chưa từng thấy ở bất cứ địa phương nào khác.

Ca dao – dân ca xứ Quảng mang đậm nét tính cách con người xứ Quảng. Truyền tải tâm tư, t́nh cảm, t́nh yêu – hạnh phúc… của những con người nơi đây.

2. Quan niệm về t́nh yêu hạnh phúc của người dân xứ Quảng:

Những con người xứ Quảng – khúc ruột miền Trung, xứ sở của nắng mưa và gió băo. Những con người tưởng chừng như chỉ ngoi ngóp măi trong cái bể khổ của cuộc đời. Vậy mà không, thật bất ngờ khi những câu ca dao – dân ca của họ ngân lên th́ kiếp người đau khổ đă tan biến đi chỉ c̣n lại những ǵ thiêng liêng và cao quư. Họ bỏ qua những trắc trở, khó khăn, t́m đến niềm vui, t́nh yêu, hạnh phúc…

Người xứ Quảng quan niệm t́nh yêu – hạnh phúc của ḿnh phải do chính ḿnh lựa chọn hạnh phúc, họ chủ động đi t́m t́nh yêu – hạnh phúc của ḿnh chứ không phải do ai sắp đặt cả. T́nh yêu hạnh phúc được t́m thấy từ chỗ sợ cái lạ đến chỗ chủ động đi t́m cái lạ, khát khao, nhạy cảm với cái mới…

T́nh yêu – hạnh phúc của những con người xứ Quảng ở trong chính những điều b́nh dị của cuộc sống hằng ngày của họ như một đặc sản, miếng ăn đậm chất Quảng cũng làm ḷng người xứ Quảng xích lại gần nhau hơn, hay như chính những câu ca dao – dân ca nói về địa danh của quê hương cũng làm những người con đất Quảng t́m thấy t́nh yêu – hạnh phúc của ḿnh trong đó khi xa quê,hoặc có thể là lời nhắn gửi nhớ thương, chờ đợi người đi được thổ lộ cũng làm người xứ Quảng có niềm tin hơn trong t́nh yêu – hạnh phúc của ḿnh.

3. T́nh yêu – hạnh phúc trong ca dao dân ca xứ Quảng:

a. T́nh yêu – hạnh phúc ở ngay trên chính hành tŕnh đi t́m:

Dù phải lên non cao ,dù phải vượt qua tam tứ núi người xứ Quảng vẫn đi t́m. Vất vả là thế mà họ chỉ đi t́m cái b́nh thường giản dị nhất:

‘Lên non t́m ḥn đá trắng
Con chim phượng hoàng sao vắng tiếng kêu?
Trời mưa lâu đá nọ mọc rêu
Đứa nào ăn ở bạc con dế kêu thấu trời.”

“Lên non t́m ḥn đá trắng” – Ô hay! Không phải t́m vàng hay t́m trầm mà chỉ t́m ḥn đá trắng! Thật là kỳ diệu cái màu trắng thanh bạch,trong ngần vô giá. Nhưng nếu hiểu ở câu chữ không th́ chưa đủ. Đọc xong ngẫm lại ta thấy giai điệu không nhẹ nhàng êm ái chút nào bởi hai thanh trắc (đá trắng) ở cuối câu lục th́ thật là lạ. Phải chăng đó là nghịch lư của cuộc đời dù chỉ đi t́m điều đơn giản nhất. Nhưng rồi khi đọc câu tiếp theo:

“Con chim phượng hoàng sao vắng tiếng kêu?”

Ta như vỡ lẽ: À, th́ ra con người xứ Quảng mượn h́nh ảnh b́nh thường nhất là ḥn đá. Nhưng điều họ muốn gửi gắm ḷng ḿnh ở đây không phải là vật chất. V́ họ lại đi trách con chim phượng hoàng sao vắng tiếng kêu. Phải chăng con người đất Quảng luôn nuôi dưỡng t́nh người. Họ nói đến chim phượng hoàng là nói đến h́nh bóng của t́nh nhân quân tử, của nhơn t́nh nhơn ngăi trong tâm hồn họ. Dù phải vượt qua mọi gian lao vất vả để đến với con chim phượng hoàng nhưng tiếc cái âm thanh mong đợi mà họ cần t́m lại lịm tắt. Nếu thả hồn tận hưởng khúc nhạc ca dao th́ ta như bắt gặp nỗi ḷng người thương, bắt gặp t́nh cảm dặn ḍ tha thiết luôn ngân nga:

“Em thương anh như chỉ buộc trọn ṿng
Anh đừng bạc dạ đem ḷng quên em”

Hay:

“Yêu nhau chẳng lọ bạc vàng
T́nh thân nghĩa thiết xin đừng chớ quên”

Thế mới hiểu rằng đời người biết bao cảnh ngộ éo le trắc trở để khi yêu nhau họ phải dặn ḍ, than thở. Nhưng rồi cái thâm thuư của bài ca dao không dừng ở đó. Nó khẳng định một điều trở thành chân lư:

“Trời mưa lâu đá nọ mọc rêu”

Vậy là dù ḥn đá trắng – màu trắng trinh nguyên nhưng rồi nó cũng phải bị rêu xanh bao phủ bởi tháng năm, bởi mưa nắng. Th́ ra bài ca dao đă nhắc nhở, cảnh báo rằng nếu ai không giữ được ḷng ḿnh th́ thời gian sẽ làm cho ta không c̣n là ta nữa. Thần t́nh quá! Sự thay đổi sắc màu hay sự thay ḷng đổi dạ của con người? Bài ca dao khép lại mà trong ta phải luôn suy nghĩ:

“Đứa nào ăn ở bạc con dế kêu thấu trời”

Thật là một sự bao dung và nhân hậu. Con người xứ ‘mía ngọt đường thơm’ không nguyền rủa đứa nào ăn ở bạc sẽ bị thế này hay thế khác… mà chỉ có tiếng dế năo nùng thấu tận trời xanh. Nhưng thâm thuư lắm đấy! Tiếng dế réo rắt suốt đêm trường, liệu lương tâm con người bội bạc không day dứt, không dày ṿ, không nhức nhối trong hối hận trong đau khổ? Mà chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau ở tâm hồn!

Vậy là bài ca dao hồn nhiên nhưng đặc quánh cốt cách của con người xứ Quảng mà cũng rất Việt Nam: Con người trọng nhân nghĩa, chung t́nh và ghét thói bội bạc vong ơn . Dù năm tháng có trôi xa, nhưng những lời ca cứ măi ngân vang trong ta. Nói như Nguyễn Đ́nh Thi th́ theo ḍng ca dao càng làm cho ta thêm yêu. Yêu là để sống. Là để thêm mạnh mẽ trong lao động, trong đấu tranh. Một t́nh yêu chất phác mà cao thượng, b́nh dị mà sâu sắc biết bao!

Là thế đó, dù rằng giai điệu bài ca dao cất lên có vẻ buồn, nhưng không thế,ẩn sâu bên trong đó vẫn có những cái mà người Quảng luôn tự khẳng định, họ nói ra để quên đi cái khổ, quên đi nỗi ḷng và cảm thấy hạnh phúc v́ những ǵ giấu kín đă được bộc bạch, họ nói ra để biết ḿnh cần phải vượt qua những thử thách ,trở ngại đó. Và v́ thế, người Quảng vẫn cứ thấy được t́nh yêu – hạnh phúc mà người đọc cứ ngỡ như rằng họ đang than thở.

b. T́nh yêu – hạnh phúc ở sự chủ động, lựa chọn:

Chủ thể trữ t́nh trong ca dao – dân ca xứ Quảng nói về t́nh yêu đôi lứa đa phần là phụ nữ. Có lẽ t́nh trường họ hứng chịu khổ đau nhiều hơn nam giới, do vậy mà nhu cầu bộc lộ giăi bày bằng tiếng hát lời ca ở họ cũng lớn hơn chăng. Quả là khi yêu, người phụ nữ phải đối mặt với bao nhiêu bất trắc:

‘Thương chàng thiếp phải đi đêm
Té xuống bờ ruộng đất mềm không đau
Không đau ơi hỡi không đau
Té xuống năm trước năm sau chưa lành’

hoặc:

“Ba với ba là sáu
Sáu với bảy mười ba
Bạn nói với ta không thiệt không thà
Như cây đủng đỉnh trên già dưới non
Khi xưa bạn nói với ta chưa vợ chưa con
Bây giờ ai đứng đầu non đó bạn tề
Bạn nói với ta bạn chưa có hiền thê
Bây chừ hiền thê mô đứng đó bạn trả lại lời thề cho ta’

hoặc:

‘Một nong tằm là năm nong kén
Một nong kén là chín nén tơ
Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ
Lênh đênh quán sấm dật dờ quán sen’…

Cả khi hai người cùng chung cảnh ngộ, th́ phụ nữ thường cũng thiệt tḥi hơn:

‘Thiếp thương chàng đừng cho ai biết
Chàng thương thiếp đừng lộ tiếng ai hay
Miệng thế gian nhiều kẻ thày lay
Cực chàng chín rưỡi khổ thiếp đây mười phần’

hay:

‘Anh buồn có chốn thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya’

… Thế nhưng vượt lên tất cả, người phụ nữ đất Quảng vẫn thể hiện rơ bản lĩnh của ḿnh trong t́nh yêu:

‘Thiếp không thương chàng th́ ra chỗ dở
Cho nên thiếp phải thương đỡ vài ngày
Thiếp có chồng rồi thiên hạ đều hay
Sợ nước lui về đông hải càng ngày càng xa’
*
‘Liệu bề thương được th́ thương
Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em’,
‘Xa xôi chi đó mà lầm
Phải hương hương bén phải trầm trầm thơm’…

Cũng không ai khác ngoài họ đă chủ động dung hoà kiểu hôn nhân theo sắp đặt với kiểu hôn nhân có t́nh yêu – một mô h́nh hôn nhân đến nay và trong nhiều thập niên tới xem ra vẫn c̣n phù hợp. Người phụ nữ đất Quảng không đồng t́nh với kiểu hôn nhân sắp đặt:

‘Đôi ta tuổi lứa đang vừa
Trách cho cha mẹ kén lừa nơi mô’,
cũng không muốn bị làng xóm cười chê rằng:
*
‘Gái đâu gái hỗn gái hào
Trai chưa vô làm rể gái đă vào làm dâu’.

Họ tự đến với nhau, yêu nhau và cùng nhau thề non hẹn biển, sau đó tranh thủ sự đồng thuận của hai bên gia đ́nh:

‘Trai mười bảy gặp gái mười ba
Trai anh hăm sáu gái em đà hăm hai
Lời nguyền với bạn không sai
Bữa mô có rảnh cậy ông mai đến nhà’

*
‘Con gà trống tía cái lông cũng tía
Ngọn khoai lang giâm ngọn mía cũng giâm
Thương nhau không dễ thương thầm
Thương thời rượu cỗ trầu mâm đến nhà
Em c̣n thừa lệnh mẹ cha
C̣n có cô chú bác chứ không phải ḿnh ta với chàng’…

Hay như:

‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Em thương anh cha mẹ không hay
Như ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào’

*
‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Kể từ ngày đó đă xa đây
Sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn’

Khi cô gái Quảng dám tự chọn lựa hạnh phúc ‘thương anh cha mẹ không hay’ th́ dẫu có ‘nghi binh’ sánh ḿnh với ‘ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào’, thực chất cô cũng đă khẳng định cái hướng mà đời cô nhằm đến. Tính khẳng định của sự lựa chọn càng hai năm rơ mười hơn ở những cách nói: ‘kể từ ngày đó đă xa đây – sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn’, hay ‘ḷng ta như chén rượu đầy – lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi’, hay ‘thương nhau chưa đặng mấy ngày – đă mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi’, rồi ‘hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày – chưa nên câu duyên nợ đă mấy trăm ngày nhớ thương’. Có lẽ tính khẳng định của sự lựa chọn đạt đến đỉnh điểm khi chủ thể trữ t́nh – dường như vẫn chính là cô gái Quảng – tự đặt bản thân trong quan hệ với người thứ ba: ‘ai’, ‘nơi mô’, từ đó mở ra cho người ḿnh yêu khả năng lựa chọn:’coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em’, ‘nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo’.

c.T́nh yêu-hạnh phúc ở sự thay đổi cách nghĩ, cách nh́n:

Cuộc sống khắc nghiệt luôn đặt ra cho người dân xứ Quảng nhiều câu hỏi lớn,chẳng hạn cam chịu nhớ thương mà chấp nhận ở lại với cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-h́nh, hay t́m sự bằng an để giũ bỏ quay về với cái-quen-xưa-bao-đời-vẫn-vậy. Và câu trả lời của người Quảng là:

‘Ngó lên Ḥn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Thương cha nhớ mẹ thời về
Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thời đừng’

Không phải đừng về mà đừng quay về, đừng hồi hương, bởi giờ đây đă có thêm một quê hương!

Chính nhờ sống trong thế giới những cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-h́nh, người Quảng xưa có nhu cầu và điều kiện đổi mới cách nh́n, cách nghĩ. Câu ca dân gian:

‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say’

Cực tả sự khát khao cái mới, nhạy cảm với cái mới của người Quảng.

‘Ra đi mẹ có dặn ḍ
Sông sâu chớ lội đ̣ đầy đừng qua’

Kinh nghiệm sống khôn ngoan ấy giờ đây cơ hồ không c̣n thích hợp nữa. Cuộc sống giờ đây đ̣i hỏi con người phải biết tư duy kiểu khác:

‘Sông sâu không lội th́ trưa
Đ̣ đầy không xuống ai đưa một ḿnh’…

Và nhờ biết tư duy kiểu khác mà thái độ ứng xử với cái lạ ở người Quảng lúc này không giống khi vừa mới đến:

‘Tay ta cầm cần câu trúc ống câu trắc lưỡi câu thau
Muốn câu con cá biển chứ cá bàu thiếu chi’

Hay:

‘Lên non t́m con chim lạ
Ở dưới phố phường chim chạ thiếu chi’.

Từ chỗ sợ cái lạ – ‘con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng’ – tới chỗ chủ động đi t́m cái lạ, đó là cả một bước tiến dài trong tư duy người xứ Quảng xưa. Họ cảm thấy hạnh phúc trong kiểu tư duy mới. T́nh yêu – hạnh phúc của người xứ Quảng được truyền tài vào ca dao một cách thông minh là thế đó.

d.T́nh yêu – hạnh phúc thể hiện qua những đặc sản, món ăn đậm chất Quảng:

Ngoài những lúc làm việc mệt nhọc,người Quảng ngồi lại cùng nhau,chia sẻ cho nhau t́nh yêu-hạnh phúc qua những món ăn đạm bạc quê ḿnh,vừa ăn,vừa ngâm lên những câu:

“Trăng rằm đă tỏ lại tṛn
Khoai lang đất cát đă ngon lại bùi”

Hay:

“Ai về đất Quảng làm dâu
Ăn cơm ghế mít hát câu ân t́nh”

Rồi tiếp đó lại là:

“Tay cầm bánh tráng mỏng nương nương
Miệng kêu tay ngoắt,bớ người thương uống nước nhiều”

Ở xứ Quảng, ăn mít trộn không thể thiếu bánh tráng. Đúng thế, đem bánh tráng xúc với mít trộn là một cách ăn điệu nghệ. Tuyệt lắm! Hạnh phúc lắm thay!

Không chỉ thế, vào xứ Quảng c̣n được tận hưởng cái khoảnh khắc hạnh phúc ḥa cùng với hạnh phúc của người Quảng qua các món ăn được ư nhị nhắc nhở qua những câu như:

“Nem chả Ḥa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Trà Kiệu
Thơm rượu Tam Kỳ”.

*
“Ai đi cách trở sơn khê,
Nhớ tô ḿ Quảng,t́nh quê mặn nồng ”

Ḿ Quảng là món ăn chủ lực, b́nh dân của đất Quảng,nên đi đâu ở đâu, mà dân Quảng ăn được tô ḿ Quảng th́ khoái khẩu, mặn mà nhất. Hoặc:

‘Trái ḅn bon trong tṛn ngoài méo
Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng…”

*
“Lụt nguồn trôi trái ḅn bon ,
Cha thác, mẹ c̣n ,con chịu mồ côi .
Mồ côi ba thứ mồ côi.
Mồ côi có kẽ trâu đôi, nhà rường”

Ḅn bon là môt loại trái cây, ngọt, sản xuất tại vùng núi huyện Đại Lộc – Quảng Nam, mùa mưa lụt, nước lụt kéo trôi trái ḅn bon, mồ côi cha không quan trọng bằng mồ côi mẹ, v́ bà mẹ biết lo cho gia đ́nh, tuy mồ côi cha, nhưng nhờ mẹ mà nhà có trâu và nhà gỗ.

Đất Quảng nổi tiếng với món don, ngon nhất là don Vạn Tường, bởi vậy mới có câu ca:

“Cô gái làng Son,
Không bằng tô don Vạn Tường…
Xứ Quảng c̣n là đất mía đường:
Ai về Quảng Ngăi quê ta
Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà, dễ ăn
Mạch nha, đường phổi, đường phèn
Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại nghiền”

Quảng Ngăi c̣n nhiều đặc sản nổi tiếng khác:

“Mứt gừng Đức Phổ
Bánh nổ Đức Thành
Đậu xanh Sơn Tịnh…

*
“Mạch nha Thi Phổ
Bánh nổ Thu Xà
Muốn ăn chà là
Lên núi Định Cương…”

Hoặc:

“Có duyên lấy đặng chồng nguồn
Ngồi trên ngọn gió có buồn cũng vui
Nhón chân kêu bớ họ nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên”

Bài ca dao quen thuộc trên trong kho tàng ca dao xứ Quảng không chỉ bày tỏ niềm hănh diện, sung sướng của những cô gái miền xuôi được lấy chồng và ở trên miền ngược mà c̣n nhắn gởi trông đợi của họ đến với người miền xuôi về sự đối lưu, trao đổi sản phẩm, mít non, cá chuồn giữa hai vùng miền cách trở.

Rơ ràng, người xứ Quảng tự hào lắm chứ, hạnh phúc lắm chứ khi đưa những món đặc sản quê ḿnh vào những câu ca dao – dân ca để khi ngân lên th́ ôi hạnh phúc xiết bao cái chất Quảng ngọt ngào đă ḥa chung vào cái tinh tế của ca dao – dân ca Việt Nam để giới thiệu đến bạn bè cả nước.

e. T́nh yêu – hạnh phúc của người xứ Quảng ẩn chứa trong những câu ca dao – dân ca nói về địa danh quê hương ḿnh:

Mỗi người dân xứ Quảng đều mang trong ḿnh chút lưng vốn ca dao – dân ca. Có lẽ v́ thế mà mỗi khi ai đó hỏi đến xứ Quảng th́ dường như họ tuôn trào mọi cảm xúc yêu-nhớ-tự hào với cái t́nh quê vốn luôn được họ nuôi dưỡng hằng ngày, hằng giờ và cứ thế họ sẽ cất lên những câu ca dao – dân ca có những địa danh xứ Quảng bằng cái chất gọng đặc sệt Quảng, th́ không thể trộn lẫn vào đâu được:

“Đất Quảng Nam, chưa mưa đà thấm,
Rươụ hồng đào chưa nhấm đà say
Đối với ai ơn trọng, nghĩa dày ,
Một hột cơm cũng nhớ ,
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên …”

Câu này đồng thời c̣n diễn tả rơ tánh t́nh người dân đất Quảng,bộc trực, bén nhạy, nhớ ơn, trọng nghĩa đối vơí các ân nhân của ḿnh. Hay:

“Hội An đất hẹp, người đông,
Nhân t́nh thuần hậu là bông đủ màu”

Phố Hội An nhỏ hẹp, nhưng ai đă ở Hội An một thời gian rồi, khi rời Hội an không làm sao quên được t́nh cảm nồng hậu của cư dân ở đây.

“Hội An bán gấm, bán điêù
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành’

Hội An, là thương cảng nên buôn bán hàng hoá sang đẹp, c̣n Kim Bồng, Trà Nhiêu là vùng ngoại ô, chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An.

“Ai đi phố Hội, Chùa Cầu,
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai,
Để sầu cho khách văng lai,
Để thương, để nhớ cho ai chịu sầu”

Những người dân Hội An, v́ sinh kế phải đi làm ăn xa, tuy nhiên vẫn thương và nhớ phố Hội.

“ Đưa tay hốt nhắm dăm bào,
Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công,
Không mai th́ mốt, hồi công,
Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân”

Kim Bồng là một xă bên kia sông, đối diện với Hội An, sản xuất nhiều nghệ nhân đồ mộc, hằng ngày qua phố Hôị làm việc, nên những cô gái đến hốt dăm bào về nấu bếp, bèn hát những câu trữ t́nh để ghẹo chú thợ mộc.

“Năm ḥn nằm đó không sai,
Ḥn Khô, Ḥn Dài, lố nhố thêm vui,
Ngó về Cửa Đại, than ôi,
Ḥn Nồm nằm dưới mồ côi một ḿnh”.

Cù Lao Chàm, nằm ngoài khơi tỉnh,gồm năm ḥn đảo, ḥn Nồm là đảo nằm riêng một ḿnh, không chen vơí các ḥn đảo khác. Hoặc có thể là những câu:

“Trà My sông núi đượm t́nh,
Nơi đây là chỗ Thượng Kinh chan hoà”

*
“Quế Trà My thứ cay, thứ ngọt ,
Nhờ tay thợ rừng mới lọt tay anh,
Phân du, bạch chỉ rành rành ,
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân”.

Trà My là huyện miền Thượng tỉnh Quảng Nam, có cả Thượng Kinh chung sống, chuyên sản xuất quế rừng, được các tay thợ rừng lột vỏ, cắt đoạn, và sắp xếp theo các hạng để định giá xuất khẩu.

“Gập ghềnh Giảm thọ, Đèo Le .
Cu ngói cơng mè, cà cưỡng cơng khoai”

Dốc Giảm thọ và Đèo Le là 2 cao độ đi lên huyện lỵ Quế Sơn, trèo qua 2 đèo nầy th́ chắc giảm thọ và mệt lè lưỡi.

“ Đứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông.
Thấy nước xanh như tàu lá,
Đứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn,
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Đào sông Câu Nhí, t́m vàng Bông Miêu,
Dặn tấm ḷng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi Thầy, Mẹ, sớm chiều cũng có Anh”

Hàn tức là tên cũ của Đà Nẵng, Hà Thân là xă ở bên kia sông, Tây tức là người Pháp, sông Câu Nhí là sông do người Pháp lúc mới cai trị Đà Nẵng cho đào chạy qua cầu Cẩm Lệ, chàng dặn ḍ người yêu cố gắng ở với cha mẹ, chờ chàng về.

“Kể từ đồn Nhứt kể vô,
Liên Chiêủ, Thuỹ Tú, Nam Ô, xuống Hàn,
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang .
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra.
Ngó lên chợ Tổng bao xa,
Bước qua Phú Thượng, Đai la, Cồn Dầøu
Cẩm Sa, Chơ Văi, Câu Lâu.
Ngó lên đường cái, thấy cầu Giáp Năm.
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm ,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ”

Đồn Nhứt là đồn gác số 1 đóng trên đèo Hải Vân và từ đó kể vào toàn là những địa danh cho đến huyện Điện Bàn.

“Kể cầu Ông Bộ kể ra,
Cây Trâm ,Trà Lư, bước qua Bàu Bàu,
Tam kỳ, Chợ Vạn bao lâu,
Ngó qua đường cái, thấy lầu Ông Tây,
Chiên Đàn , Chợ Mới là đây,
Kế Xuyên mua bán, đông, tây rộn ràng
Hà Lam gần sát Phủ Đàng,
Phiá ngoài băi cát , Hương An nằm dài ,
Cầu cho gái sắc, trai tài .
Đồng tâm xây dựng, tương lai huy hoàng”

Các địa danh trên đây, kể từ trong kể ra, Lầu ông Tây tức là nhà lầu của Viên Đại lư Hành Chánh Pháp đóng ở Tam Kỳ, c̣n Chợ Mới, Chợ Vạn, Kế Xuyên, Chiên Đàn là những tụ điểm thương măi quanh Tam Kỳ.

Vậy đó, dù rằng không nói trực tiếp cái t́nh yêu quê hương, cái hạnh phúc trong ḷng ḿnh nhưng mỗi người đọc ca dao – dân ca xứ Quảng tinh ư, nhạy bén sẽ cảm nhận được t́nh yêu – hạnh phúc được truyền tải qua những lời ca ấy.

g. Niềm tin t́nh yêu – hạnh phúc:

Những con người xứ Quảng có một niềm tin vững chắc, vô điều kiện:

“Thương nhau chớ quá e dè,
Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be
Thiếp nói th́ chàng phải nghe,
Thức khuya, dậy sớm, làm che 1 ngày 12 xu,
Măn mùa chè, nệm cuốn sàn treo ,
Ta về, bỏ bạn, cheo leo một ḿnh,
Bạn ơi, bạn chớ phiền t́nh,
Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau,
Lạy trời, mưa xuống cho mau.
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng”

Hoặc có thể là câu ca dao – dân ca của ḷng thủy chung, chờ đợi:

‘Ngó lại quê ḿnh
Bởi em chèo thuyền
Trên sông cái
Em ngó lại quê ḿnh
Chim trên cành c̣n đủ cặp huống chi ḿnh lẻ đôi
V́ đâu đây với đó đă hai nơi
Chiếc đ̣ ngang bằng chiếc đũa không lời nhắn đưa
Cây đa bến cũ đ̣ xưa Người thương có nghĩa nắng mưa ta vẫn chờ’

Hay câu:

‘Sớm mai chàng hoá con chim trống đứng dựa b́a núi
Chiều lại thiếp hoá con chim mái đứng dựa b́a rừng
Nỉ non ba tiếng cho có chừng
Dầu xa muôn dặm biểu bạn đừng có xa’…

Câu ca dao thấm nhuần t́nh tự dân tộc, xuất phát từ t́nh yêu giữa đôi trai gái, có tính chất mộc mạc,chân t́nh, nói lên bản chất của người dân đất Quảng vẫn luôn tồn tại, không đổi thay, qua thời gian và không gian, giữa những ḍng đổi thay của đất nước.

4. Nghệ thuật của người xứ Quảng trong ca dao – dân ca:

Nh́n chung ngôn ngữ ca dao – dân ca xứ Quảng nói chung thô mộc song không phải không có những nét đặc sắc.

a. Nghệ thuật chơi chữ:

‘Thương nhau trường đoạn đoạn trường
Lụy lưu lưu lụy dạ dường kim châm’.

Một câu lục bát mười bốn chữ mà đa phần là từ Hán – Việt, trong đó đáng chú ư là cách đảo từ ‘trường đoạn’ thành ‘đoạn trường’, ‘lụy lưu’ thành ‘lưu lụy’ nhằm khai thác sức mạnh biểu cảm của những từ đồng âm dị nghĩa. Khi cần ‘chữ nghĩa’, người Quảng cũng rất chi là ‘chữ nghĩa’, đấy chứ. Ở đây, nghệ thuật chơi chữ đă được vận dụng một cách triệt để, hay ví dụ như câu

‘Anh từ trong Quảng ra thi
Leo lên đèo ải chữ chi mập mờ’

hoặc câu:

‘Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
Áo vắt vai quần hai ống ướt
Chữ nghĩa chi chàng mà lấn lướt vô thi
Tiền năm quan ngủ quán mất đi
Trai nam nhơn mô đối đặng
Gái nữ nhi xin kết nguyền’…

Hay câu:

‘Con gái La Qua
Qua đường qua chọc

Qua biểu em rằng
Đừng có la qua’

Cái tên ‘La Qua’ vốn chỉ là một địa danh trong câu:

‘Dù xa cửa ngơ cũng xa
Dù gần Bến Điện, La Qua cũng gần’

đến đây bỗng trở thành ngữ động từ ‘la qua’ – tức ‘mắng anh’ (v́ anh đă trêu chọc em). Ngay chữ ‘qua’ cũng rất đa nghĩa: vừa là thành tố của địa danh La Qua, vừa là anh (qua chọc, qua bảo, la qua), lại vừa là bước sang (qua đường). Rơ ràng nghệ thuật chơi chữ của người Quảng trong câu ca dân gian này khá là độc đáo.

b. Tính truyền thống và cách tân :

– Người Quảng thường sáng tác dựa theo kết cấu có sẵn: Có những câu ca dao sau:

Nước Thổ Hà vừa trong vừa mát
Đường Vạn Vân lắm cát dễ đi
(Hà Bắc)

*
Nước Trịnh Thôn vừa trong vừa mát
Đường Trịnh Thôn lắm cát dễ đi
(Thanh Hóa)

*
Nước Ngọc Sơn vừa trong vừa mát
Đường Nam Giang lắm cát dễ đi
(Nghệ An)

Nhưng với cái khung có sẵn ấy, bài ca ở vùng đất Quảng cũng vẫn có phần sáng tạo riêng:

Giếng B́nh Đào vừa trong vừa mát
Đường B́nh Đào lắm cát dễ đi
Em ơi má thắm làm chi
Để anh thương nhớ mấy con trăng ni không về..

Đấy là cách sáng tác truyền miệng phổ biến khắp nước ta…Người xứ Quảng đă cảm thụ truyền thống chung trong nghệ thuật ca dao – dân ca dân tộc.

– Tính dị bản trong ca dao – dân ca xứ Quảng:

Có lẽ câu ca dao truyền thống và tiêu biểu nhất của người xứ Quảng có nhiều dị bản nhất là:

“Đất Quảng Nam chưa mưa đă thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đă say”

Theo cuốn Văn học dân gian Quảng Nam(miền biển), tập III, năm 2001 th́ đă có 14 dị bản. 10 dị bản thuộc loại trữ t́nh và 4 dị bản thuộc loại tự sự lịch sử. Có thể kể đến một vài dị bản như sau:

‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Thương nhau chưa đặng mấy ngày
Đă mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi’

*
‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày
Chưa nên câu duyên nợ đă mấy trăm ngày nhớ thương’

*
‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Bạn về nằm nghĩ gác tay
Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em’

*
‘Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Bạn về đừng ngủ gác tay
Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo’…

Tính chất trữ t́nh của bài ca này đă được chuyển hóa thành tính chất tự sự lịch sử, nhưng vẫn không đi ra ngoài mô típ của một câu cao dao cổ. Đây chính là h́nh thức vừa ổn định của yếu tố truyền thống vững bền, vừa biến đổi nhờ yếu tố cách tân, để bài ca đi sát với thực tế xă hội và t́nh trạng lịch sử…

c. Hiện tượng chính trị hóa ca dao – dân ca trữ t́nh:

Người Quảng nhạy cảm với chính trị, cho nên bên cạnh những câu ca dao – dân ca có nội dung chính trị hẳn hoi, chẳng hạn câu ca dao:

“Ai lên chín ngă sông Con
Hỏi thăm ông Hường Hiệu có c̣n hay không’

hay câu hát:

‘Đứng bên ni Hàn
Ngó bên tê Hà Thân nước xanh như tàu lá
Đứng bên tê Hà Thân
Ngó về Hàn phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí ḅn vàng Bông Miêu
Dặn ḷng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau’

Rơ ràng hai chữ ‘nghênh ngang’ đă công khai bày tỏ thái độ chính trị của nhân dân Đà Nẵng đang phải chung sống với kẻ thù), c̣n khá phổ biến trong thơ ca dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng hiện tượng chính trị hoá ca dao – dân ca trữ t́nh.

Câu ca dao trữ t́nh quen thuộc :

“Trời mưa ướt bụi ướt bờ
Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em’

được người Quảng chính trị hoá trở thành những câu trữ t́nh – chính trị:

Ra đời vào thời gian đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Genève 1954.Ta thấy rằng trongnhững cảnh ngộ không thể nói thẳng được điều cần nói, người Quảng vẫn có thể kín đáo vận động chính trị đồng thời gián tiếp tự bộc lộ sự lựa chọn chính trị của ḿnh. Điều đó đă được dễ dàng đưa vào ca dao – dân ca một cách khéo léo,tài t́nh.

d. Hiện tượng tách từ,nói lái:

Hiện tượng tách từ được người Quảng dùng khá thuần thục trong ca dao – dân ca :

‘Nh́n xem nam bắc tây đông
Thấy thiên thấy hạ mà không thấy chàng
Về nhà đứng thở ngồi than
Cơm ta ăn không đặng nhớ đến nghĩa chàng đó chàng ơi’

Hay:

‘Xa làm chi mà xa quanh xa quất
Xa làm chi mà xa tức xa tối xa vội xa vàng
Không cho thiếp thở chàng than đôi lời’.

Đến chữ nghĩa cũng chia rời, xa cách, huống chi đôi lứa đang yêu! Sở trường nói lái thường được tận dụng:

‘Một chữ anh cũng thi
Hai chữ anh cũng thi
May thời đậu trạng dẫu rớt đi cũng ông nghè hồi’.

Ông ‘nghè hồi’ ở đây không phải là ông tiến sĩ vinh quy (nghè: tiến sĩ; hồi: trở về), mà là ông ‘ngồi hè’ – v́ đă thi hỏng tức vẫn c̣n là anh học tṛ nghèo kiết xác, không ngồi ngoài hè th́ ngồi vào đâu được!

Với những câu ca dao – dân ca không chỉ ở mảng đề tài t́nh yêu – hạnh phúc, chúng ta đă có thể thấy được nghệ thuật của ca dao – dân ca xứ Quảng. Từ đó hiểu được những điều người xưa Quảng xưa muốn nói .

5. Kết luận:

T́nh yêu – hạnh phúc trong ca dao – dân ca xứ Quảng với lối nói mộc mạc đơn giản, đậm chất Quảng được truyền tải bằng âm thanh giọng điệu, ngôn ngữ với nội dung nghệ thuật phong phú, đa dạng đă nói lên được cái t́nh yêu – hạnh phúc rất riêng của người xứ Quảng.

T́nh yêu – hạnh phúc trong ca dao – dân ca xứ Quảng xuất phát từ những cái b́nh dị hằng ngày .Bằng những nét tài hoa, óc sáng tạo đầy tinh thần thẩm mỹ, ca dao – dân ca xứ Quảng đă thể hiện tâm tư, t́nh cảm mộc mạc, trong sáng, đậm đà t́nh nghĩa của những con người xứ Quảng chịu thương chịu khó. Họ bất chấp mọi trắc trở để t́m thấy niềm vui, lạc quan trong cuộc sống, t́nh yêu hạnh phúc.

Ca dao – dân ca xứ Quảng là một phần hồn về đề tài t́nh yêu – hạnh phúc trong nội dung ca dao – dân ca Việt Nam. Cho dù đi bất cứ nơi đâu,chúng tôi – những con người xứ Quảng vẫn cảm thấy tâm hồn thanh thản và ấm áp khi nghe lại những câu ca dao – dân ca xứ Quảng quê ḿnh.

Có dịp nh́n lại ca dao – dân ca xứ Quảng để chúng ta có dịp nhắc nhở nhau rằng ca dao – dân ca vốn có rất nhiều những nội dung sắc sảo cần được giữ ǵn, phát huy. Mà một trong những nội dung có thể kể đến là đề tài t́nh yêu – hạnh phúc. (Hết)

@ thaonguyenbt2010

Tài liệu tham khảo:

1. Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng, tập I, Nguyễn Văn Bổn, Sở văn hóa thông tin Quảng Nam – Đà Nẵng chủ tŕ biên soạn, xuất bản năm 1983 và tái bản đầu năm 1986.
2. Huỳnh Ngọc Trảng và Vu Gia với phần biên khảo về văn học dân gian huyện Đại Lộc trong Địa chí Đại Lộc (NXB. Đà Nẵng – 1992).
3.Thạch Phương trong tiểu luận Ca dao của một vùng đất (Ca dao Nam Trung Bộ – NXB. Khoa học xă hội – 1994) bàn về ca dao và những thể loại có liên quan đến thơ ca dân gian của Quảng Nam – Đà Nẵng)
4 . Báo Quảng Nam
5. Báo Quảng Ngăi
6. Báo Đà Nẵng
7. Luận văn Thạc sỹ Nguyễn Văn Tiếng….

 

Nguồn: cadaotucnguvietnam.wordpress.com

Post ngày: 10/19/17 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17