Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

 

Quảng Nam

Lịch Sử, Thiên Nhiên, Nhân Văn, Chính Trị

Cố Dân Biểu Lê Đ́nh Duyên

QUẢNG là rộng răi, NAM là phương Nam, đối diện phương Bắc. Vậy QUẢNG NAM nghĩa là mở rộng về phương Nam. Địa danh Quảng-Nam biểu-dương một chiến-lược quyết-định vô cùng quan yếu của dân tộc Việt-Nam

Quảng-Nam phản ảnh trung thực tiến tŕnh lịch sử Nam tiến không ngừng suốt mấy mươi thế kỷ, phát xuất từ  Động Đ́nh hồ, phía nam sông Dương-Tử cho đến ngày nay, của dân-tộc Việt-Nam đâ phát triển, tiến hóa và sinh tồn, hầu góp mặt xứng đáng và chính danh cùng những dân tộc anh em vùng Đông Nam Á nói riêng và những dân tộc bạn bè  trên  hoàn  vũ nói chung.


A. Từ Đạo QUẢNG NAM đến Tỉnh QUẢNG NAM (1301-183

Thoạt tiên, năm 1306, theo lời giao ước  gă Công Chúa Huyền Trân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (năm 130 trong dịp viếng thăm hữu nghị Việt Nam Vua ChiêmThành  là Chế Mân dâng  hai châu :  châu  Ô và  châu  Rí làm sính lễ để xin cưới  Công Chúa Huyền Trân. 

Năm 1307, sau nghi lễ tiễn đưa Công Chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc,Vua Trần Nhân Tông tiếp thu hai châu Ô và Rí, di dân khẩn hoang và đổi tên là Thuận Châu (bắc Hải Vân quan) và Hóa Châu (nam Hải Vân quan). Dân Chiêm Thành bỏ đất lui về phíi Nam.

Năm 1402, sau khi tiếm ngôi nhà Trần, Hồ quư Ly chia Hóa châu, gồm đất Chiêm Động, Cổ Lũy, lập thành 4 châu là Thăng Châu (Thăng B́nh và phía Bắc), Hóa Châu, Tư Châu và Nghi Châu (Quảng Ngăi và phía Nam), di dân canh tác và đặt quan An Phủ Sứ cai trị. Dân ChiêmThành lại bỏ đất lui dần về phía Nam. 

Năm 1470, Hồng Đức nguyên niên, Vua Lê Thánh Tông sau trận đại thắng bắt được Vua Chiêm Thành là Trà Toàn, triệt để khai thác sự chia rẽ cuả hoàng tộc Chiêm Thành, chia Chiêm Thành ra làm ba nước nhỏ, phong ba Vua: Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan, chủ đích làm suy yếu đối phương. Lại lấy Hóa Châu gồm đất  Chiêm Động, Đồ Bàn, Đại Chiêm và  Cổ Lũy lập thành đạo Quảng Nam  (địa danh Quảng Nam bắt đầu xuất hiện trên lịch sử Việt Nam từ đây ). Đạo Quảng Nam gồm có 3 phủ và 9 huyện (tiền thân của Nam, Ngải, B́nh, Phú sau này) và đặt quan cai trị . 

Năm 1570, Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Đạo Quảng Nam, truyền nối con cháu (Nguyễn-Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu,.......) lấn dần vào Nam, xâm chiếm trọn vẹn nước Chiêm Thành, lập phủ Diên Khánh (Khánh Hoà), phủ B́nh Thuận, huyện Yên Phúc và huyện Ḥa Đa (B́nh Thuận). 

Năm 1744, Chúa Vũ Vương Nguyặn Phúc Khoát, sau khi chiếm được Hà Tiên, Rạch Giá, chia nước ra làm 12 dinh: Chính dinh (Thừa Thiên), Cựu dinh (Áí Tử), Quảng B́nh dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính dinh, Quảng Nam dinh (Quảng Ngải phủ và Qui Nhơn phủ), Phú Yên dinh, B́nh Khang dinh, B́nh Thuận dinh (đất Chiêm Thành), Trấn Biên dinh, Phiên Trấn dinh, Long Hồ dinh (đất Chân Lạp). Đồng thờ́ lấy Hội - An làm cửa biển duy nhất buôn bán với nước ngoài, nên người ngoại quốc thường gọi là Quảng Nam Quốc. 

Năm 1806 Vua Gia Long, sau khi thống nhất được đất nước, chia nước ra làm 23 trấn. Bắc Thành có 11 trấn, Gia Định thành có 5 trấn, miền trung có 7 trấn, trong đó có Quảng Ngải trấn, B́nh Định trấn và Phú Yên trấn; và 4 doanh, thuộc đất kinh kỳ: Trực Lệ, Quảng Đức doanh (Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng B́nh doanh và Quảng Nam doanh. Như thế Đạo Quảng Nam hay Quảng Nam doanh bắt đầu từ đây chính thức chia thành 3 trấn : Quảng Ngải trấn, B́nh Định trấn, Phú Yên trấn và 1 doanh là Quảng Nam doanh. 

Năm 1831,Vua Minh Mạng đổi trấn và doanh thành tỉnh và đặt chứcTổng Đốc, Tuần Phủ, Bố Chánh Sứ, Án Sát, Lănh Binh trông coi việc cai trị. Và địa danh  Tỉnh  QUẢNG NAM  có từ đây.


B. Tỉnh QUẢNG NAM

    
    1. Thiên nhiên. 

Tỉnh Quảng Nam, phiá Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên tại Hải Vân quan, phía nam giáp tỉnh Quảng Ngăi tại núi Trà My và phủ B́nh Sơn, phía Đông giáp biển Nam Hải, phiá Tây giáp dẫy Trường- Sơn. Diện tích 12,000 cây số vuông (7,500 dặm vuông). Dân số 2,500,000. Khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa.Từ tháng 5 đến tháng 10, gió tây bắc đông nam (gió nồm) mang hơi nước từ vùng Thái Lan vào, nhưng bị dẫy Trường Sơn ngăn lại, nên không mưa  (chỉ mưa ở miền nam, miền đồng bằng sông Cửu Long) và ngược lại, mang hơi nóng của vùng nuí vôi Đồng Chum của Ai Lao qua (gió lào), nên rất oi bức...Từ tháng 11 đến tháng 4, gió đông bắc tây nam (gió bấc) mang gió buốt từ phương bắc,cọng thêm hơi nước biển Nam Hải xuống, bị dăy Trường-Sơn ngăn lại, nên mưa nhiều,gió lạnh và lụt lội liên miên, hết đợt này đến đợt khác, gây thiệt hại muà màng, nhưng đồng thời cũng mang phù sa tái bồi, làm ph́ nhiêu thêm cho miền đồng bằng không ít. Dăy Trường Sơn, đoạn chạy dài suốt từ bắc vào nam, thuộc tỉnh Quảng Nam, núi khá cao từ  1000m đến  3000m, sườn phiá đông dựng đứng, vươn ra nhiều nhánh núi dọc ngang chạy ra biển, tạo thành nhiều thung lủng lớn nhỏ ph́ nhiêu và hiểm yếu, mà những phong trào nhân dân nổi dậy đă chọn làm căn cứ điạ Tân Tỉnh chống Pháp, như phong trào Văn Thân cuả cụ Tán- Thừa (Trần Thưà),và phong trào Cần Vương cuả cụ Hường Hiệu (Nguyễn Duy Hiệu) và gần đây cuộc ly khai Nam Ngải của Việt Nam Quốc Dân Đảng chọn làm liên khu chiến Xuyên Sơn (Duy Xuyên-Quế Sơn) và Kỳ Phước (Tam Kỳ-Tiên Phước) chống chế độ độc tài gia đ́nh trả Ngô-Đ́nh Diệm năm 1955-1956. 

Dọc theo các thung lủng ấy là các nguồn sông (nguồn sông Con, nguồn sông Cái, nguồn sông Dak- Mi, nguồn sông Tranh,...) chảy hợp lại thành các sông lớn nhỏ (sông Cẩm Lệ, sông Vu Gia, sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ, sông Trường Giang,...) nước chảy xiết, nhiều ghềnh thác, hay thay đổi ḍng không thuận tiện giao thông thủy lộ lắm.  Đường giao thông  Quảng Nam chưa được phát triển đúng mức cần thiết, ngoài thiết lộ xuyên Việt, và quốc lộ 1, chạy suốt từ bắc vào nam, dọc theo duyên hảỉ có mấy nhánh tỉnh lộ chạy ngang, dẩn vào cxc quận,huyện miền sơn cước Trường Sơn đông, đa số chưa được tráng nhựa và cầu cống hiện đại. Đặc biệt là sát cửa biển, giữa Cửa Đà Nẵng và Cửa Đại (Hội An), đột khởi một cụm núi, tục gọi là Ngủ Hành Sơn (Kim,Mộc,Thủy,Hoả,Thổ) hay núi Non Nước (Sơn Thủy hữu t́nh) có chùa (chùa Tam Thai,chùa Linh Ứng), có động (động Tăng Chơn, động Huyền Thông) toàn đa' cẩm thạch và đá hoa cương. 

    2. Nhân văn: 

Mật độ dân số Quảng Nam tương đối cao so với các tỉnh lân cận (Thừa Thiên,Quảng Ngải,... ) định  cư tại vùng đồng bằng, hầu hết là người Việt, gốc Bắc Hà và bắc trung Việt  (Thanh Hóa, Nghệ Tỉnh,...),V́ lư do chính trị hay kinh tế, theo chân các chúa Nguyễn, nối tiếp từ đời này qua đời khác, di dân vào khẩn hoang lập nghiệp, cộng thêm một số người Chàm, Việt gốc  Chiêm-Thành c̣n sót lại, ở rải rác chung quanh vùng tháp cũ, thành xưa (Phong Lệ, Trà Kiệu, Mỹ Sơn), một số người Minh Hương (Việt gốc Hoa) và Hoa kiều, Ấn kiều, Nhật kiều, Pháp kiều ở tập trung vào các thị xă Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ. C̣n miền thượng du sát chân núi dọc theo dăy Trường-Sơn men theo các khe, các nguồn,th́ người thiểu số thuộc giống dân Bana, Stiêng,...sinh sống theo lối du canh, du cư, săn bắn, đốt rừng làm rẫy. Dân trí Quảng Nam nói chung khá cao, hiểu biết rộng, lập trường quan điểm vững chắc ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng, đạo đức Tam Giáo đồng- nguyên, lại trực tính, thích tranh luận, nên từ xa xưa trong dân gian đă có câu "Quảng Nam hay căi"  là thế. Và trong thời cận đại, xung đột giữa Quốc-Cộng cũng mang nhiều sắc thái đặc biệt và quyết liệt. Xă hội Quảng Nam không có giai cấp do những điều kiện hay tập tục bất công áp đặt. Giá trị và địa vị con người hoàn toàn do thực chất tài năng và đạo đức con người ấy tạo dựng nên và được xă hội đương nhiên công nhận và tôn trọng tự do và b́nh đẳng tuyệt đối. 

     3.Kinh tế. 

Quảng Nam "dĩ nông vi bản" , 80% dân chúng sinh sống nông nghiệp, nhờ hệ thống đập nước dẫn thủy nhập điền mà hầu hết điạ phương nào cũng có (đập Cẩm Lệ ở Hoà Vang, đập Bồ Nít ở Điện Bàn, đập Khe Công ở DuyXuyên, đập Hương An và đập Mộ Long ở QuếSơn, đậpVó và đập Kênh Ba Kỳ ở Tam Kỳ,.....) nên hàng năm có hai muà lúa chính là tháng 3 và tháng 8, ngoài ra ở vùng ruộng cao c̣n có mùa lúa tháng mười. Thêm vào đó, nông dân c̣n sản xuất những hoa màu phụ như khoai, sắn, đậu, mía,thuốc lá, bông vải, dâu, nuôi tằm...Chăn nuôi ở Quảng Nam vừa đủ tự phụ như khoai, sắn, đậu, mía, thuốc lá, bông vải, dâu, nuôi tằm...Chăn nuôi ở Quảng Nam vừa đủ tự túc cho việc cày bừa, kéo xe và ăn thịt. Ngư nghiệp Quảng Nam phát triển ở các vùng ven biển (cửa Đà Nẵng, cửa Đại, Cù Lao Chàm) và các cửa sông lớn (sông Thu Bồn,sông Trường Giang, sôngTam Kỳ,..) sản xuất nhiều hải sản chế biến nổi tiếng (nước mắm Nam Ô, mắm cá cơm Tân Thái..).Tiểu ng nghệ Quảng Nam mang nhiều sắc thái đặc thù: ươm tơ (nhà máy ươm Quảng Huế, Đại Lộc), dệt vải (Bảo An, Xuân Đài, Điện Bàn,...),dệt hàng lụa Nam Vang (Mă Châu, Thi Lai, Hà Mật, Duy-Xuyên,...), chạm gổ (Kim Bồng, Duy Xuyên), khắc đá (Non Nước, Ḥa Vang), đúc đồng ( Phước-Kiều, Điện Bàn), gạch ngói (Cẩm Hà, Hội An). Núi rừng Quảng Nam trùng trùng điệp điệp, giàu lâm sản, nhiều gổ quư (lim, kiền kiền, cẩm lai, gỏ đỏ, sơn nghệ,...), nhiều dược thảo (quế,trà,sâm,yến sào,...), nhiều cây dầu (dầu rái, dầu trảo, dầu lai,...), nhiều cây công nghiệp (tre, nứa, mây,...) nhiều  da thú (voi,cọp,hươu,nai,trâu,ḅ,heo rừng,...) nhiều khoáng sản (than đá Nông Sơn,Quế Sơn,vàng Bông Miêu,Tam Kỳ, mica Đại Lộc, dầu hỏa khí đốt ở ven biển Đà Nẵng và Cù Lao Chàm ). 

    4. Chính trị.   

Về phương diện hành chánh, dưới triều Minh Mạng, Quảng Nam được chia làm 8 phủ, huyện: 4phủ thuộc miền duyên hải, từ bắc vào nam là Điện Bàn, (gồm cả thị xă Hội An),  Duy Xuyên,Thăng-B́nh và Tam Kỳ; và 4 huyện thuộc miền cao, tạm gọi sơn cước là Hoà Vang (gồm cả thị xă  Đà-Nẵng), Đại Lộc, Quế Sơn và Tiên Phước. 

Năm 1888, Thành Thái nguyên niên, triều đ́nh Huế kư nhượng Đà Nẵng cho Pháp làm nhượng điạ. Năm 1962,chính phủ VNCH Ngô Đ́nh Diệm chia tỉnh Quảng Nam ra thành 2 tỉnh: Quảng Nam (phiá bắc) gồm các quận HoàVang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Quế Sơn, Hiếu Đức, Thường Đức. Đức Dục và Hiếu Nhơn (gồm thị xă Hội An);  và Quảng Tín  (phía nam)  gồm các quận Thăng- B́nh, Tiên Phước, Hậu Đức, Hiệp Đức, Lư Tín và Tam Kỳ ( gồm thị xă Tam Kỳ). 

Năm 1975,chính phủ CHXHCNVN lại sáp nhập 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thành phố Đà Nẵng thành tỉnh  Quảng Nam Đà Nẵng, gồm có 12 huyện là Hoà Vang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng B́nh, Tam Kỳ, Đại Lộc, Quế Sơn, Tiên Phước, Tiên Giang, Phước Sơn, Trà My và thành phố Đà Nẵng.  

Quảng Nam, đất điạ linh nhân kiệt, sông núi điệp trùng, từ hơn mấy thế kỷ nay,đă sản xuất nhiều danh nhân khoa bảng tiền tiến, nhiều nhà cách mạng can trường, nhiều chính trị gia xuất chúng, nhiều thi văn gia lỗi lạc, nhiêù tư tưởng gia thâm nho, như các cụ Trúc Đường Phạm Phú Thứ, Hà-Đ́nh Nguyền Thuật, Hoàng Diệu, Hồ Lệ, Lê Đ́nh Dỉnh, Ông Ích Khiêm, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Thượng Văn, Tây Hồ Phan Chu Trinh, Thái Xuyên, Trần Quư Cáp, Tiểu La Nguyễn Thành, Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Lê Đ́nh Dương, Nguyễn-Tường Tam, Phan Khôi... 

Năm 1915, năm Duy Tân thứ 8, khoa trường chữ Hán chấm dứt, nhà nước bảo hộ chuyển  qua tân học, lấy Pháp văn làm chuyển ngữ chính, theo chương tŕnh giáo dục Pháp quốc, Quảng Nam lại sản xuất nhiêù tiến sĩ, kỹ sư đủ nghành: y học, dược học, luật học, toán học, vật lư học, chính trị, xă hội học,.đặc biệt nhất là sau biến cố 30-4-75, trong cuộc di tản tỵ nạn lịch sử, chuyên viên khoa học kỹ thuật Quảng Nam đua nhau nở như hoa mùa xuân ở khắp các nước tạm dung Âu, Á, Mỹ, Úc Châu khiến mọi người phải kính nể. 


C. NGŨ PHỤNG TỀ PHI (Năm chim Phụng cùng bay)  

Năm 1898, năm Thành Thái thứ 10, chiếu thông lệ, triều đ́nh Huế cứ 3 năm mở khoa thi hương, vào những năm tí, ngọ, mẹo, dậu, và 5 năm mở khoa thi hội hay thi đ́nh, vào những năm th́n, tuất, sửu, mùi. Sĩ tử Quảng Nam nói riêng,cũng như sĩ tử toàn quốc nói chung đều khăn gói lều chơng lai kinh (kinh đô Huế,Thuận Hóa) dự thị đặc biệt, khoa Mậu Tuất (1898) Quảng Nam nổi tiếng văn trường mà dân gian thường gọi là Khoa Ngũ Phụng.  Khoa này, toàn quốc có 18 tân đại-khoa th́ Quảng Nam chiếm mất 5/18 là 3 tiến sĩ và 2 phó bảng (phó tiến sĩ) đồng hương và đồng khoa, một điều hy hữu xưa nay chưa từng có tại Việt Nam. Vua Thành - Thái và triều đ́nh Huế ban thưởng danh hiệu "NGỦ PHỤNG TỀ PHI," bốn chữ kim tuyến vàng được thêu nổi trên nền gấm đỏ, trên đại kỳ  "VINH QUY BAÍ TỔ" cuả 5 vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa ấ'y và truyền lệnh cho quan, dân địa phương Quảng Nam đón rước vô cùng trọng thể, chủ đích một mặt đề cao nhân tài xuất chúng của đất nước, một mặt xương minh khuyến học cho dân sĩ tử hậu sanh noi theo. Lại cũng có người tương truyền rằng 4 chữ  NGŨ PHỤNG TỀ PHI  ấy là của Văn-Thân, được thêu trên lá cờ đi rước 5 vị tân đại khoa "vinh quy bái tổ". 

1. Năm vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa được xếp theo thứ tự như sau: 

1.1.  Ông  Phạm Tuấn :  

Tiến sĩ đệ nhị giáp, người lớn tuổi nhất, cử nhân xuất thân, đương nhiệm chức Đốc Học tỉnh Quảng Nam, quê quán làng Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng (G̣Nổi, PhùKỳ) phủ Điện Bàn, trú quán làng Bến Đề, tổng Phú Khương Thượng, phủ Điện Bàn. Theo tài liệu cuả ông Quốc Minh đăng trên báo Người Việt số 2721, ngày 15-5-93, th́ ông Phạm Tuấn đă một lần đỗ tiến sĩ, khoa thi hội Kỹ Sửu(1889), năm Thành Thái nguyên niên, nhưng v́ biến cố ở kinh đô Huế lúc bấy giờ nên kỳ thi ấ'y không được công bố và xem như hủy bỏ. Như thế nghiă là ông Phạm Tuấn 2 lần đổ tiến sĩ 2 khoa thi hội cách nhau 10 năm, 1889-1898. 

1.2. Ông Phạm Liệu: 

Tiến sĩ đệ nhị giáp, người nhỏ tuổi nhất, quê quán làng Trừng Giang, tổng Phú Khương Thượng (G̣ Nổi,Phù Kỳ), phủ Điện Bàn. 

 1.3. Ông Phan Quang: 

Tiến sĩ đệ tam giáp,quê quán làng Bàng Lănh, tổng Phú Khương Thượng (G̣-Nổi Phù Kỳ), phủ Điện Bàn, trú quán làng Phước Sơn, huyện Quế Sơn.

        1.4. Ông Dương Hiển Tiến: 

          Phó bảng, quê quán làng Cẩm Lậu, tổng An Nhơn, phủ Điện Bàn.

        1.5. Ông Ngô Lư: 
               Phó bảng, quê quán làng Cẩm Sa, tổng Phú Triên, phủ Điện Bàn.

2.  Về xuất xứ và liên hệ gia đ́nh, môn đồ. 

  • Năm vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa đều là người quê quán phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng- Nam.
     

  • Ba vị tân tiến sĩ đồng khoa không những quê quán cùng đồng tỉnh  Quảng Nam, cùng đồng phủ Điện Bàn, mà c̣n đồng tổng Phú Khương Thượng (G̣ Nổi, Phù Kỳ).
     

  • Hai vả tân tiến sĩ đồng hương và đồng khoa Phạm Liệu và Phạm Quang là anh em con cô con cậu, thuộc tộc Phan, làng Bàng Lănh, tổng Phú Khương Thượng, phủ Điện Bàn, và là con cháu nội ngoại xa gần, đồng thời là môn đồ của cụ Tú Thất Khoa (7 khoa tú tài) Phan Thế Huân,và cụ Tú Ngũ Khoa (5 khoa tú tài) Phan thế Tiên húy Nguyên, trú quán làng Cổ Tháp, tổng Mậu Hoà, Phủ Duy Xuyên. 

3.  Về văn bài. 

Theo tài liệu do ban giám khảo trường thi Hội khoa Mậu Tuấ't (1898) lưu chiếu tại Quốc Tử Giám của triều đ́nh nhà Nguyễn th́: 

  • Văn bài cuả tiến sĩ Phạm Tuấn xuất sắc về thâm thúy, trong sáng, chững chạc, đáng bậc mô phạm gương mẫu.
     

  • Văn bài của Tiến Sĩ Phạm Liệu xuất sắc về bay bướm, âm điệu, phong nhà, đ'ang bậc tuổi trẻ tài hoạ

4. Về thơ tặng

Đương thời ở Quảng Nam, cụ Đào Tấn, hiệu Tô Giang, tiểu hiệu Mai Tăng, ququê quán xă Vĩnh- Thạnh, quận Tuy Phước, tỉnh B́nh Định, tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Măo (1867) là tác giả các vở tuồng hát bộ: Hộ Sanh Đường, Khuê Các Anh Hùng, Trầm Hương Các, Ngũ Hổ B́nh Tây, Tống Địch Thanh...nổi tiếng mà ngày nay thường được tŕnh diễn, làm Tổng Đốc, có tặng mỗi ông tân tiến sĩ một bài thơ mà các cổ nho ngày nay c̣n truyền tụng: 

     4.1._Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Tuấn: 

                          Vận hội tuần hoàn ngũ thập niên, 
                          Thử ban tương kế xuất danh hiền.
                          Trúc-ba nhân khứ, Hà-ba tại,
                          Nhụy bản du truyền Giáp Ất tiên. 

                  Tạm dịch: 

                         Năm mươi năm hội tuần hoàn,  
                         Tôi hiền liên tiếp nảy vang đất này.
                         Cụ Hà đó, cụ Trúc đi,(*)  
                         Bút tiên Giáp Ất tên ghi bảng vàng. 

  (*) Trúc ba chỉ cụ Trúc Đường Phạm Phú Thứ đă từ trần; Hà ba chỉ cụ Hà Đ́nh Nguyễn Thuật đang c̣n sống lúc bấy giờ. 

      4.2._ Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Liệu: 

                        Chiết quế nhơn tùng nguyệt diện lai,
                        Đ́nh bôi vị vấn thiếu niên tài.  
                        Khán hoa mă quá song kiều lộ,  
                        Thùy vị nam nhi đệ nhất mai. 

                Tạm dịch: 

                         Bẻ về cành quế Hằng Nga,  
                         Chén nồng xin hỏi trẻ mà tài cao(**)
                         Xem hoa cưởỉ ngựa qua cầu,
                         Cành nam ai kẻ trổ đầu hoa mai. 

  (**) Ông Phạm Liệu lúc thi đổ tiến sĩ c̣n trẻ tuổi.  

       4.3._ Bài thơ tặng tiến sĩ Phan Quang : 

                         Giang sơn thành thục dị tài đa,
                         Tam quế tề khai nhất dạng hoa,
                         Cảnh hữu Quảng Hàn cung tại khách,
                         Dũ tương thể bút tả Hằng Nga. 

               Tạm dịch:  

                         Non sông un đúc lắm tài cao,  
                         Ba cụm đơm bông quế một màu.
                         Có khách Quảng Hàn vừa mới đến,  
                         Bút hoa tô nét nguyệt thanh tao. 

5.  Về thân thế và sự nghiệp .

5.1._ Tiến sĩ Phạm Tuấn nổi tiếng làm câu đối chữ Hán và chữ Nôm rất hay, rất thâm thúy, c̣n được truyền tụng: 

                    

a.)_ Câu đối ở miếu trong vườn: 

                              Hữu đức, hữu Nhơn, kim hữu hữu,
                              Như Thần, như Tại, hựu như như. 

                    

b.)_ Câu đối ở chùa Xuân Đài (làng chánh quán): 

                              XUÂN thâm mặc chứng kim sanh QUẢ,
                              ĐÀI cổ thường khai tích thọ HOA. 

( Cụ Phan Bội Châu khi kinh qua đây, đọc câu đối, rất lấy làm khen ngợi) 
 

c.)_ Câu đối ở chùa Bến Đền (làng trú quán) 

                             Sơn thủy chung linh tư hữu tự,  
                             Quỷ thần giáng phước tín vô tư.
 

d.)_ Câu đối làm cho triều đ́nh Huế đi phúng điếu Cần   Chánh Đại  Học Sĩ Nguyễn Thân, người có công giúp Pháp đánh dẹp Phong Trào Cần Vương: Phan Đ́nh Phùng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn- Duy Hiệu ở Quảng Nam: 

                        Sinh như ông, tử như ông, sinh tử như ông - BẤT 
                        Công cái thế, danh cái thế, công danh cái thế - VÔ 

( Nghe đâu ông Nguyễn Hy con của Nguyễn Thân, kỷ sư ở Pháp về, nghe dư luận đàm tiếu về câu đối này, đă phát đơn kiện ông Phạm Tuấn về việc mạ lỵ thân sinh ông. Ông trả lời là hăy xem trong câu đối, ai là người đứng tên đi, rơ ràng là triều đ́nh Huế, vậy hăy kiện triều đ́nh Huế chứ sao lại  kiện tôi. Thế là hoà cả làng !

Suốt 35 năm làm quan (1898-1913), ông chuyên rách ngành giáo dục, qua các chức vụ Huấn Đạo, Giáo Thọ, Đốc Học ở các tỉnh miền trung và 4 lần cử làm sơ khảo (189, phúc khảo (1894), giám khảo (1897), Ở các trường thi Hương B́nh Định; và các phân khảo (1900) ở trường thi Hương  Nghệ An.

 Ông có 3 đời vợ, nhưng các con trai ông đều hữu sinh vô dưỡng, nên cuối cùng vô tự.  Năm1913, năm Duy Tân thứ 7, ông hưu trí với hàm Hồng Lô tự Khanh. 

          5.2._ Tiến sĩ Phạm Liệu văn hay chữ tốt, hoạn lộ hạnh thông, nhất là sau ngày ông đă thiếu b́nh tĩnh đánh mất sĩ khí  Quảng Nam , đang tâm bán rẽ lương tâm và linh hồn cho bọn thực dân Pháp để mưu cầu chút hư danh tục đế bằng cách mật báo cơ mưu, ngày giờ và địa điểm khơỉ nghĩa chống Pháp của Vua Duy Tân và Việt Nam Quang Phục Hội cho Công Sứ Pháp Dc Taster và Tuần Phủ Trần Tiễn Hối ( hậu duệ của Phụ Chánh Trần Tiến Thành ) ở Quảng Ngĩa. Và do đó, Khâm- Sứ Charles liền bí mật ban hành lệnh giới nghiêm , tuớc khí giới tất cả quân lính  Việt Nam , bố trí người đặc biệt theo dơi t́nh h́nh và chuẩn bả sẵn sàng đàn áp .  Kết quả cuộc cách mạng chống Pháp của  Vua Duy Tân và  Việt Nam  Quang Phục Hội miền Trung, khuya ngày 3 rạng ngày 4 tháng 5 năm 1916 ( 1-2 tháng 4 năm Bính Th́n) đă thất bại từ trong trứng nước. Sau đó, Án Sát Sứ Phạm Liệu được thăng chức Phủ Thừa tỉnh Thừa Thiên và tuần tự thăng dần đến Thượng Thư Bộ Binh ở triều đ́nh Huế, rồi Hiệp Tá Đại Học Sĩ với tước Trừng Giang Nam trí sĩ. 

Ông có 4 đời vợ và con trai không đông, nhưng hầu hết,con trai ông đều chết trẻ, trước khi lập gia đ́nh. 

         5.3_ Tiến sĩ  Phan  Quang đường tiến thân khá bằng phẳng không có ǵ đáng ghi nhận. Ông làm quan đến chức Thượng Thư ở triều đ́nh Huế, rồi Trí Sĩ (cụ Thượng Phước Sơn). 

Ông có 3 đời vợ và con trai trưởng là giáo sư Phan Khoang, một học giả, một sử gia, một nhà văn hữu hạng tại đất thần kinh Huế. 

         5.4._ Phó bảng Dương Hiễn Tiến sau khi vinh quy bái tổ, chưa kịp thi thố tài năng phục vụ đất nước và đồng bào th́ thất lộc. 

        5.5._ Phó bảng Ngô Lư. Theo truyền thuyết dân gian,địa phương, ông Ngô Lư nguyên quán không phải ở Cẩm Sa, nhưng lư trưởng Cẩm  Sa thời ấ'y có ăn tiền lót của ông nhiều ít ǵ đó, mới nhận thực cho ông khai tam đại tại làng đễ lập hồ sơ đi thi.  Không ngờ sau ông đổ Phó  Bảng ra làm quan. Chúng thấy vô cớ mà rước một ông  Tiên Chỉ ở đâu về ăn trên ngồi trước trong làng, nên bọn lư hương âm mưu với nhau ếm mă cụ thân sinh ông, và sau đó ông Ngô Lư chết v́ bạo bệnh tại huyện đường tỉnh Nghệ An.Việc ấy sau này Văn thân Quảng Nam biết được, phát đơn kiện và bọn lư hương Cẩm Sa bị án.(Trích tài liệu trong " Quảng Nam Nhân Vật Liệt Chí" của Nguyễn Bội Liên biên soạn, do ty tiểu học Quảng Nam xuất bản năm 1969).

Để kết luận, chúng ta là những người dân xứ  Quảng có hănh diện và có nhắc nhở đến " Ngũ- Phụng Tề Phi "  là chỉ hănh diện và nhắc nhở cáí tài học cao biết rộng, văn hay chữ tốt, về phương diện văn chương khoa bảng mà thôi, chứ về phương diện an bang tế thế, ích quốc lợi dân, theo như ḷng dân xứ Quảng hằng mong muốn th́ không có ǵ đáng được lưu ư đề cao cả.

Đất Quảng Nam, ngoài " Ngũ Phụng Tề Phi " khoa Mậu Tuất (1898) c̣n có:

       1._ Khoa Tân Sửu (190 4 vị đỗ Phó bảng đồng khoa và đồng hương là ông  Nguyễn Đ́nh Hiến (Trung Lộc,Quế Sơn), Ông Nguyễn Mậu Hoán (Phú Cốc,Quế Sơn), Ông Vơ Vỹ (An phước,Thăng B́nh), Ông Phan Châu Trinh (Tây Lộc,Tiên Phước) mà dân gian thường mệnh danh là " TỨ KIỆT "

       2._ Trong 4 khoa thi Hương liên tiếp là khoa Đinh Dậu (1897), khoa Canh Tư (1900), khoa Ất Măo (1903), khoa Mậu Ngọ (1906),  có 4 vị đỗ thủ khoa là: ông Phạm Liệu (Trừng Giang, Điện Bàn), ông Vơ Hoành  (Long Phước, Duy Xuyên ), ông Nguyễn Đ́nh Hiến (Trung Lộc,Quế Sơn ), ông Huỳnh Hanh tức Huỳnh Thúc Kháng (Thanh B́nh,Tiên Phước) mà dân gian thường mệnh danh là " TỨ HỔ ". Như vậy:

             *  Ông Phạm Liệu vừa là "Ngũ Phụng Tề Phi" vừa là " Tứ Hổ ".

             *  Ông Nguyễn Đ́nh Hiến vừa là " Tứ Kiệt " vừa là  " Tứ Hổ ".

Ngoài những danh sĩ kế tiếp nhau tranh khôi đoạt giáp nói trên,các vị Cử Nhân, Tú Tài, th́ khoa nào cũng có, nhưng có một số trong quư vị ấy không ra làm quan, lại ngồi tại làng mở trường dạy học truyền bá triết lư và đạo đức thánh hiền, xây dựng hương chính địa phương, bảo đảm nền thịnh vượng và hạnh phúc chung cho nhân dân, hay viết sách,viết báo cổ động nền Tự Do, Dân-Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam.

Nhưng tiếc thay, thời vàng son ấ y nay c̣n đâu ! ?

                                      Garden Grove, ngày 30-10-1993.

Xem tiếp với bài:
Đà Nẵng Qua Cái Nh́n
Địa Lư, Văn Hóa, Lịch Sử
*
Trần Quốc Vượng  

Đà Nẵng với sông Hàn - cửa Hàn - vịnh Hàn và bán đảo Sơn Trà, là một cảnh thị rất tốt của miền Trung, của cả Việt Nam.  Cái tên Hàn, tôi thấy trong thơ Đường :

" Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền"


Lại cũng thấy bến đ̣ Hàn ở Ninh Giang - Vĩnh Bảo, Hải Dương, thoạt cứ ngỡ là tên chữ Hán tự, hóa ra Hàn-Hat-Hac (như "Hát Môn" ở Sơn Tây - Hắc Hải ở Quảng B́nh) là tiếng melaya cổ, chỉ bến sông, cửa sông.

Đà Nẵng vốn là một thành phần hữu cơ của xứ Quảng, của tỉnh Quảng Nam. Tây thực dân tách Tourane - Đà Nẵng- một cái tên gốc Chàm- ra thành "nhượng địa" kiểu Tây. 
Chiến tranh và Cách mạng lại gắn bó Quảng Đà với nhau.

Nay do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Đà Nẵng lại tái lập là thành phố trực thuộc trung ương, nhưng tất nhiên vẫn phải liên lạc với Quảng Nam. Về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa xă hội vẫn phải đặt Đà Nẵng trong bối cảnh xứ Quảng, nếu như chúng ta muốc có một cái nh́n khoa học.

Đà Nẵng nằm ở phía nam chân đèo Hải Vân, mà Sơn Trà - cũng cấu tạo địa chất - là sự nối dài ra biển, một sự đâm ngang, của dăi cuối Trường Sơn nam - có người gọi là Nam Sơn.

Từ Hải Vân trở vào nam của đồi rừng á xích đạo. Đà Nẵng - xứ Quảng không có mùa khô rơ rệt, do tác dụng bức chấn của khối núi bắc Kontum nên trong mùa gió đông bắc lượng mưa c̣n đáng kể. Hải Vân như một bức tường thành làm giới hạn cuối cùng cho cái mùa đông gió bấc lạnh lùng của miền bắc nước ta.

Đà Nẵng - xứ Quảng không có mùa đông v́ nhiệt độ trung b́nh các tháng đều trên 20 độ C, mấy tháng đầu năm, khí trời dịu mát, khô ráo; tháng 5 đến tháng 8, bầu trời ixanh ngắt, nắng hắt xuống cồn cát trắng xóa, mặt biển thẩm lại, gần như chuyển sang màu tím.  Mùa nắng lại không phải là mùa mưa v́ dăi Trường Sơn chắn gió mùa tây nam từ vịnh Bengale thổi tới. Mưa lệch pha với hai miền bắc bộ và nam bộ, bắt đầu từ tháng 9, tháng 10 (mưa hội tụ nội chí tuyến và tiếp theo là mưa địa h́nh) Gío bấc thổi mát từ biển vào, đưa tới Đà Nẵng- xứ Quảng những trận mưa kéo dài nhiều ngày rả rích. Đây là mùa thu của miền Trung và cũng là mùa băo lũ. Mưa giảm dần về cuối năm và sang giêng th́ kết thúc.

Bờ biển Đà Nẵng - xứ Quảng vốn khúc khuỷu nhưng đă được san bằng qua phương thức cồn cát-đầm phá, các mơm núi nhô ra biển được nối liền bởi các dải cồn, hải lưu chảy nhanh hơn bùn sét do hệ sông Vu Gia - Thu Bồn mang ra đă ít, lại bị cuốn đi xa nên ven biển gồm toàn cát trắng xám. Cũng v́ thế mà có nhiều băi tắm đẹp, tốt như Tiên Sa, Non Nước, Mỹ Khê.

Sóng gío biển vun cát nên cồn trong khi sông tải phù sa ra biển. Sông và biển phối hợp nhau tạo nên đất nước, và ảnh hưởng vào văn hóa con người. 

Lănh thổ Đà Nẵng trải dài tới vùng Non Nước - Ngũ Hành Sơn (Lạ một điều, trên các bản đồ Mỹ và bản đồ du lịch, người ta cứ kư hiệu vùng Non Nước- Ngũ Hành Sơn là China beach (băi biển Trung Hoa). Đó là điều tối kỵ, mong sở du lịch Đà Nẵng lưu tâm sửa đổi).

Như thế, Đà Nẵng nay bao gồm cả lưu vực sông Vĩnh Điện ( Câu Nhí) ngă ba Điện Ngọc. Ta nhớ đến câu ca dao xưa ở thế kỷ XIX :

"Từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí, đắp đàng Bông Miêu"


Câu này dễ gây hiểu lầm. Câu Nhí (xă đầu sông) vốn là một từ gốc Chàm như Cổ Mân (xă cuối sông nơi hợp lưu với sông Cẩm Lệ). Sông Câu Nhí Vĩnh Điện vốn là sông tự nhiên nối Thu Bồn và Cẩm Lệ, để mở ra cửa Hàn theo Đại Nam Nhất Thống Chí (chép ở quyển 7 tỉnh Quảng Nam) :  "Sông ấy khuất khúc, lâu ngày bị bồi đắp, năm Minh Mạng thứ 3 (1822) ... khai nhân sông cũ mà đào từ xă Cau Nhí đến xă Cẩm Sa (thôn Cu-Đê)". Sông này cũng như cảng Đà Nẵng đă được khắc h́nh tượng vào Du đỉnh đặt ở kinh thành Huế.

Ở châu thổ sông Vu Gia- Thu Bồn có những sông con hay sông nhánh, với thời gian đắp đổi, thường bị đổi ḍng hay bị phù sa lấp cửa, lâu dần thành loại sông "nửa kín nửa hở" hay thậm chí thành "sông lấp" hay thành "sông chết". Dù nhu cầu thủy lợi, giao thông ngày nươc quân chủ ngày trước và nhà nước dân chủ sau này phải tổ chức đào lại và thường nắn ḍng chảy cho thẳng hơn, thậm chí đặt lại tên sông nữa, nên về sau, nếu ta không nh́n nhận kỹ, cứ ngỡ là sông đào, kiểu "kênh máng" Tôi đă đi điền dă ở lưu vực và trên ḍng sông Vĩnh Điện từ "cửa vào" gần sông Câu Lâu trên sông Thu Bồn (địa phận thị trấn Vĩnh Điện) đến Cu Đê- Cẩm Sa và tôi biết chắc đây vốn có ḍng chảy tự nhiên, đi thuyền được. Cũng vậy, có một ḍng sông chảy ṿng vèo dọc bờ biển nối cửa Hàn và Hội An, dân gian xứ Quảng đến nay vẫn gọi là sông Cổ C̣, nay bị lấp nhiều chỉ c̣n từng đoạn mà trên từng đoạn ấy (nhất là phía gần Hội An) vẫn có thể đi thuyền được. Hơn ai hết, nhà khảo cổ cần phải biết về những ḍng sông cũ đó v́ từ thời đại đá mới sơ kỳ kim khí trở về sau, các di chỉ văn hóa- tức là những làng mạc cổ - thường phân bố trên các đồi - g̣ đất cao (miền bắc đồi g̣, miền trung cồn dăi cồn, miền nam giồng) đó là những làng ven sông hợp với những làng ven đồilàng ven biển tạo nên mạng lưới làng quê Việt Nam với phức thể kinh tế nông- công- thương-chài. Khảo cổ học Đà Nẵng- xứ Quảng sau giải phóng (30-4-1975) đă phát hiện được những di chỉ Điện Ngọc (có ŕu đá, ŕu đồng, gốm thô pha cát...) Hỏa sơn (sườn núi Hỏa trong hệ thống Ngũ Hành Sơn, chân núi là cồn cát cổ) thuộc phức hệ văn hóa Sa Huỳnh, tuổi (qua xác định bằng phương pháp phân tích cũ) từ 2000-2500 năm trở về trước mà chủ là những cư dân nói tiếng melayu cổ - tiếng Chăm.

Trong một hang động thuộc Ngũ Hành Sơn nay đă h́nh thành chùa Việt, gần chục năm về trước, nhà sư và giới khảo cổ đă phát hiện được một số di tích kiến trúc - điêu khắc đá Chàm cổ niên đại X - XI và muộn hơn, Hội An và Cù Lao Chàm cũng đă t́m thấy phế tích tháp, giếng Chàm, tượng và điêu khắc Chàm niên đại sớm muộn trước thế kỷ XV. Chính ở phía ngoài bến cá - chợ cá Đà Nẵng bên kia bán đảo Sơn Trà (sách cũ như Đại Nam Nhất Thống Chí chép là Trà Sơn- núi của người Trả = Chăm trước thế kỷ XV cũng có làng Cu Đê của người Chăm với sông Cu Đê của Cu Đê. tấn biển (trấn hải) Cu Đê cùng Tấn biển Đà Nẵng là chỗ hai ḍng sông Cẩm Lệ và Vĩnh Điện chảy ra biển.

Đại Nam Nhất Thống Chí (q.VII- Quảng Nam (tỉnh) chép: "Vũng Sơn Trà (tức vũng Thùng-TQV) ở phía bắc huyện Ḥa Vang, lại có tên là vũng Đà Nẵng. Phía đông là núi Trà Sơn (Sơn Trà nay - TQV), phía bắc là núi Hải Vân, phía tây là tấn Cu Đê, dài rộng ước 25 dặm linh (có lẻ), phía đông nam là vũng Trà Sơn (tức vịnh Hàn-TQV) là vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió; tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đổ tại đây"

Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập chép rằng : Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1471_TQV), đóng quân ở Hải Vân Quan, đêm khuya không ngủ, vừa đứng ngắm núi biển, đèo, mây, nước, có câu thơ:

Tam canh dạ tĩnh Đông Long Nguyệt
Ngă cố phong thanh Lộ Hạc thuyền


dịch:

Trăng Đông Long ba canh đêm tĩnh
Thuyền Lộ Hạc năm trống (canh) gió thanh

Đông Long là tên vùng biển nam Hải Vân; Lộ Hạc là tên nước (Locac= bán đảo Mă Lai nay - TQV), người nước này hay đi thuyền đến đây buôn bán.

Như vậy là rơ: Trước thế kỷ XV, Đà Nẵng đă là Cảng Quốc Tế. Trên đă nói sông Cổ C̣ nối cửa Hàn Đà Nẵng và cửa Đại Hội An. Đà Nẵng - Hội An là một phức cảng thị quốc tế, thuyền buôn quốc tế từ bắc xuống, qua cửa Hàn, theo sông Cổ C̣ qua Ngũ Hành Sơn vào vụng Trà Quế mà tới Hội An; từ phía nam lên, theo sông Trường Giang (cũng chảy dọc ven biển từ Thăng B́nh tới Duy Xuyên nay) vào vụng Trà Nhiêu mà tới Hội An buôn bán.

Cuối XVIII - XIX, sông Hội An với các vụng Trà Nhiêu, Trà Quế bị lấp cạn dần, thuyền máy hơi nước tải trọng lớn ra vào Hội An bất tiện (ghe bầu th́ vẫn được nên dần dà Hội An phải nhường bước cho Đà Nẵng thành cảng thị quốc tế chính ở miền Trung.


Trần Quốc Vượng
(tạp chí Xưa ,Nay số 54B tháng 8-1998,VN)

QUẢNG NAM
Lịch Sử, Thiên Nhiên, Nhân Văn, Chính Trị

Cố Dân Biểu Lê Đ́nh Duyên


QUẢNG là rộng răi, NAM là phương Nam, đối diện phương Bắc. Vậy QUẢNG NAM nghĩa là mở rộng về phương Nam. Địa danh Quảng-Nam biểu-dương một chiến-lược quyết-định vô cùng quan yếu của dân tộc Việt-Nam

Quảng-Nam phản ảnh trung thực tiến tŕnh lịch sử Nam tiến không ngừng suốt mấy mươi thế kỷ, phát xuất từ  Động Đ́nh hồ, phía nam sông Dương-Tử cho đến ngày nay, của dân-tộc Việt-Nam đâ phát triển, tiến hóa và sinh tồn, hầu góp mặt xứng đáng và chính danh cùng những dân tộc anh em vùng Đông Nam Á nói riêng và những dân tộc bạn bè  trên  hoàn  vũ nói chung.


A. Từ Đạo QUẢNG NAM đến Tỉnh QUẢNG NAM (1301-183

Thoạt tiên, năm 1306, theo lời giao ước  gă Công Chúa Huyền Trân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (năm 130 trong dịp viếng thăm hữu nghị Việt Nam Vua ChiêmThành  là Chế Mân dâng  hai châu :  châu  Ô và  châu  Rí làm sính lễ để xin cưới  Công Chúa Huyền Trân. 

Năm 1307, sau nghi lễ tiễn đưa Công Chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc,Vua Trần Nhân Tông tiếp thu hai châu Ô và Rí, di dân khẩn hoang và đổi tên là Thuận Châu (bắc Hải Vân quan) và Hóa Châu (nam Hải Vân quan). Dân Chiêm Thành bỏ đất lui về phíi Nam.

Năm 1402, sau khi tiếm ngôi nhà Trần, Hồ quư Ly chia Hóa châu, gồm đất Chiêm Động, Cổ Lũy, lập thành 4 châu là Thăng Châu (Thăng B́nh và phía Bắc), Hóa Châu, Tư Châu và Nghi Châu (Quảng Ngăi và phía Nam), di dân canh tác và đặt quan An Phủ Sứ cai trị. Dân ChiêmThành lại bỏ đất lui dần về phía Nam. 

Năm 1470, Hồng Đức nguyên niên, Vua Lê Thánh Tông sau trận đại thắng bắt được Vua Chiêm Thành là Trà Toàn, triệt để khai thác sự chia rẽ cuả hoàng tộc Chiêm Thành, chia Chiêm Thành ra làm ba nước nhỏ, phong ba Vua: Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan, chủ đích làm suy yếu đối phương. Lại lấy Hóa Châu gồm đất  Chiêm Động, Đồ Bàn, Đại Chiêm và  Cổ Lũy lập thành đạo Quảng Nam  (địa danh Quảng Nam bắt đầu xuất hiện trên lịch sử Việt Nam từ đây ). Đạo Quảng Nam gồm có 3 phủ và 9 huyện (tiền thân của Nam, Ngải, B́nh, Phú sau này) và đặt quan cai trị . 

Năm 1570, Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Đạo Quảng Nam, truyền nối con cháu (Nguyễn-Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu,.......) lấn dần vào Nam, xâm chiếm trọn vẹn nước Chiêm Thành, lập phủ Diên Khánh (Khánh Hoà), phủ B́nh Thuận, huyện Yên Phúc và huyện Ḥa Đa (B́nh Thuận). 

Năm 1744, Chúa Vũ Vương Nguyặn Phúc Khoát, sau khi chiếm được Hà Tiên, Rạch Giá, chia nước ra làm 12 dinh: Chính dinh (Thừa Thiên), Cựu dinh (Áí Tử), Quảng B́nh dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính dinh, Quảng Nam dinh (Quảng Ngải phủ và Qui Nhơn phủ), Phú Yên dinh, B́nh Khang dinh, B́nh Thuận dinh (đất Chiêm Thành), Trấn Biên dinh, Phiên Trấn dinh, Long Hồ dinh (đất Chân Lạp). Đồng thờ́ lấy Hội - An làm cửa biển duy nhất buôn bán với nước ngoài, nên người ngoại quốc thường gọi là Quảng Nam Quốc. 

Năm 1806 Vua Gia Long, sau khi thống nhất được đất nước, chia nước ra làm 23 trấn. Bắc Thành có 11 trấn, Gia Định thành có 5 trấn, miền trung có 7 trấn, trong đó có Quảng Ngải trấn, B́nh Định trấn và Phú Yên trấn; và 4 doanh, thuộc đất kinh kỳ: Trực Lệ, Quảng Đức doanh (Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng B́nh doanh và Quảng Nam doanh. Như thế Đạo Quảng Nam hay Quảng Nam doanh bắt đầu từ đây chính thức chia thành 3 trấn : Quảng Ngải trấn, B́nh Định trấn, Phú Yên trấn và 1 doanh là Quảng Nam doanh. 

Năm 1831,Vua Minh Mạng đổi trấn và doanh thành tỉnh và đặt chứcTổng Đốc, Tuần Phủ, Bố Chánh Sứ, Án Sát, Lănh Binh trông coi việc cai trị. Và địa danh  Tỉnh  QUẢNG NAM  có từ đây.


B. Tỉnh QUẢNG NAM

    
    1. Thiên nhiên. 

Tỉnh Quảng Nam, phiá Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên tại Hải Vân quan, phía nam giáp tỉnh Quảng Ngăi tại núi Trà My và phủ B́nh Sơn, phía Đông giáp biển Nam Hải, phiá Tây giáp dẫy Trường- Sơn. Diện tích 12,000 cây số vuông (7,500 dặm vuông). Dân số 2,500,000. Khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa.Từ tháng 5 đến tháng 10, gió tây bắc đông nam (gió nồm) mang hơi nước từ vùng Thái Lan vào, nhưng bị dẫy Trường Sơn ngăn lại, nên không mưa  (chỉ mưa ở miền nam, miền đồng bằng sông Cửu Long) và ngược lại, mang hơi nóng của vùng nuí vôi Đồng Chum của Ai Lao qua (gió lào), nên rất oi bức...Từ tháng 11 đến tháng 4, gió đông bắc tây nam (gió bấc) mang gió buốt từ phương bắc,cọng thêm hơi nước biển Nam Hải xuống, bị dăy Trường-Sơn ngăn lại, nên mưa nhiều,gió lạnh và lụt lội liên miên, hết đợt này đến đợt khác, gây thiệt hại muà màng, nhưng đồng thời cũng mang phù sa tái bồi, làm ph́ nhiêu thêm cho miền đồng bằng không ít. Dăy Trường Sơn, đoạn chạy dài suốt từ bắc vào nam, thuộc tỉnh Quảng Nam, núi khá cao từ  1000m đến  3000m, sườn phiá đông dựng đứng, vươn ra nhiều nhánh núi dọc ngang chạy ra biển, tạo thành nhiều thung lủng lớn nhỏ ph́ nhiêu và hiểm yếu, mà những phong trào nhân dân nổi dậy đă chọn làm căn cứ điạ Tân Tỉnh chống Pháp, như phong trào Văn Thân cuả cụ Tán- Thừa (Trần Thưà),và phong trào Cần Vương cuả cụ Hường Hiệu (Nguyễn Duy Hiệu) và gần đây cuộc ly khai Nam Ngải của Việt Nam Quốc Dân Đảng chọn làm liên khu chiến Xuyên Sơn (Duy Xuyên-Quế Sơn) và Kỳ Phước (Tam Kỳ-Tiên Phước) chống chế độ độc tài gia đ́nh trả Ngô-Đ́nh Diệm năm 1955-1956. 

Dọc theo các thung lủng ấy là các nguồn sông (nguồn sông Con, nguồn sông Cái, nguồn sông Dak- Mi, nguồn sông Tranh,...) chảy hợp lại thành các sông lớn nhỏ (sông Cẩm Lệ, sông Vu Gia, sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ, sông Trường Giang,...) nước chảy xiết, nhiều ghềnh thác, hay thay đổi ḍng không thuận tiện giao thông thủy lộ lắm.  Đường giao thông  Quảng Nam chưa được phát triển đúng mức cần thiết, ngoài thiết lộ xuyên Việt, và quốc lộ 1, chạy suốt từ bắc vào nam, dọc theo duyên hảỉ có mấy nhánh tỉnh lộ chạy ngang, dẩn vào cxc quận,huyện miền sơn cước Trường Sơn đông, đa số chưa được tráng nhựa và cầu cống hiện đại. Đặc biệt là sát cửa biển, giữa Cửa Đà Nẵng và Cửa Đại (Hội An), đột khởi một cụm núi, tục gọi là Ngủ Hành Sơn (Kim,Mộc,Thủy,Hoả,Thổ) hay núi Non Nước (Sơn Thủy hữu t́nh) có chùa (chùa Tam Thai,chùa Linh Ứng), có động (động Tăng Chơn, động Huyền Thông) toàn đa' cẩm thạch và đá hoa cương. 

    2. Nhân văn: 

Mật độ dân số Quảng Nam tương đối cao so với các tỉnh lân cận (Thừa Thiên,Quảng Ngải,... ) định  cư tại vùng đồng bằng, hầu hết là người Việt, gốc Bắc Hà và bắc trung Việt  (Thanh Hóa, Nghệ Tỉnh,...),V́ lư do chính trị hay kinh tế, theo chân các chúa Nguyễn, nối tiếp từ đời này qua đời khác, di dân vào khẩn hoang lập nghiệp, cộng thêm một số người Chàm, Việt gốc  Chiêm-Thành c̣n sót lại, ở rải rác chung quanh vùng tháp cũ, thành xưa (Phong Lệ, Trà Kiệu, Mỹ Sơn), một số người Minh Hương (Việt gốc Hoa) và Hoa kiều, Ấn kiều, Nhật kiều, Pháp kiều ở tập trung vào các thị xă Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ. C̣n miền thượng du sát chân núi dọc theo dăy Trường-Sơn men theo các khe, các nguồn,th́ người thiểu số thuộc giống dân Bana, Stiêng,...sinh sống theo lối du canh, du cư, săn bắn, đốt rừng làm rẫy. Dân trí Quảng Nam nói chung khá cao, hiểu biết rộng, lập trường quan điểm vững chắc ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng, đạo đức Tam Giáo đồng- nguyên, lại trực tính, thích tranh luận, nên từ xa xưa trong dân gian đă có câu "Quảng Nam hay căi"  là thế. Và trong thời cận đại, xung đột giữa Quốc-Cộng cũng mang nhiều sắc thái đặc biệt và quyết liệt. Xă hội Quảng Nam không có giai cấp do những điều kiện hay tập tục bất công áp đặt. Giá trị và địa vị con người hoàn toàn do thực chất tài năng và đạo đức con người ấy tạo dựng nên và được xă hội đương nhiên công nhận và tôn trọng tự do và b́nh đẳng tuyệt đối. 

     3.Kinh tế. 

Quảng Nam "dĩ nông vi bản" , 80% dân chúng sinh sống nông nghiệp, nhờ hệ thống đập nước dẫn thủy nhập điền mà hầu hết điạ phương nào cũng có (đập Cẩm Lệ ở Hoà Vang, đập Bồ Nít ở Điện Bàn, đập Khe Công ở DuyXuyên, đập Hương An và đập Mộ Long ở QuếSơn, đậpVó và đập Kênh Ba Kỳ ở Tam Kỳ,.....) nên hàng năm có hai muà lúa chính là tháng 3 và tháng 8, ngoài ra ở vùng ruộng cao c̣n có mùa lúa tháng mười. Thêm vào đó, nông dân c̣n sản xuất những hoa màu phụ như khoai, sắn, đậu, mía,thuốc lá, bông vải, dâu, nuôi tằm...Chăn nuôi ở Quảng Nam vừa đủ tự phụ như khoai, sắn, đậu, mía, thuốc lá, bông vải, dâu, nuôi tằm...Chăn nuôi ở Quảng Nam vừa đủ tự túc cho việc cày bừa, kéo xe và ăn thịt. Ngư nghiệp Quảng Nam phát triển ở các vùng ven biển (cửa Đà Nẵng, cửa Đại, Cù Lao Chàm) và các cửa sông lớn (sông Thu Bồn,sông Trường Giang, sôngTam Kỳ,..) sản xuất nhiều hải sản chế biến nổi tiếng (nước mắm Nam Ô, mắm cá cơm Tân Thái..).Tiểu ng nghệ Quảng Nam mang nhiều sắc thái đặc thù: ươm tơ (nhà máy ươm Quảng Huế, Đại Lộc), dệt vải (Bảo An, Xuân Đài, Điện Bàn,...),dệt hàng lụa Nam Vang (Mă Châu, Thi Lai, Hà Mật, Duy-Xuyên,...), chạm gổ (Kim Bồng, Duy Xuyên), khắc đá (Non Nước, Ḥa Vang), đúc đồng ( Phước-Kiều, Điện Bàn), gạch ngói (Cẩm Hà, Hội An). Núi rừng Quảng Nam trùng trùng điệp điệp, giàu lâm sản, nhiều gổ quư (lim, kiền kiền, cẩm lai, gỏ đỏ, sơn nghệ,...), nhiều dược thảo (quế,trà,sâm,yến sào,...), nhiều cây dầu (dầu rái, dầu trảo, dầu lai,...), nhiều cây công nghiệp (tre, nứa, mây,...) nhiều  da thú (voi,cọp,hươu,nai,trâu,ḅ,heo rừng,...) nhiều khoáng sản (than đá Nông Sơn,Quế Sơn,vàng Bông Miêu,Tam Kỳ, mica Đại Lộc, dầu hỏa khí đốt ở ven biển Đà Nẵng và Cù Lao Chàm ). 

    4. Chính trị.   

Về phương diện hành chánh, dưới triều Minh Mạng, Quảng Nam được chia làm 8 phủ, huyện: 4phủ thuộc miền duyên hải, từ bắc vào nam là Điện Bàn, (gồm cả thị xă Hội An),  Duy Xuyên,Thăng-B́nh và Tam Kỳ; và 4 huyện thuộc miền cao, tạm gọi sơn cước là Hoà Vang (gồm cả thị xă  Đà-Nẵng), Đại Lộc, Quế Sơn và Tiên Phước. 

Năm 1888, Thành Thái nguyên niên, triều đ́nh Huế kư nhượng Đà Nẵng cho Pháp làm nhượng điạ. Năm 1962,chính phủ VNCH Ngô Đ́nh Diệm chia tỉnh Quảng Nam ra thành 2 tỉnh: Quảng Nam (phiá bắc) gồm các quận HoàVang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Quế Sơn, Hiếu Đức, Thường Đức. Đức Dục và Hiếu Nhơn (gồm thị xă Hội An);  và Quảng Tín  (phía nam)  gồm các quận Thăng- B́nh, Tiên Phước, Hậu Đức, Hiệp Đức, Lư Tín và Tam Kỳ ( gồm thị xă Tam Kỳ). 

Năm 1975,chính phủ CHXHCNVN lại sáp nhập 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thành phố Đà Nẵng thành tỉnh  Quảng Nam Đà Nẵng, gồm có 12 huyện là Hoà Vang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng B́nh, Tam Kỳ, Đại Lộc, Quế Sơn, Tiên Phước, Tiên Giang, Phước Sơn, Trà My và thành phố Đà Nẵng.  

Quảng Nam, đất điạ linh nhân kiệt, sông núi điệp trùng, từ hơn mấy thế kỷ nay,đă sản xuất nhiều danh nhân khoa bảng tiền tiến, nhiều nhà cách mạng can trường, nhiều chính trị gia xuất chúng, nhiều thi văn gia lỗi lạc, nhiêù tư tưởng gia thâm nho, như các cụ Trúc Đường Phạm Phú Thứ, Hà-Đ́nh Nguyền Thuật, Hoàng Diệu, Hồ Lệ, Lê Đ́nh Dỉnh, Ông Ích Khiêm, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Thượng Văn, Tây Hồ Phan Chu Trinh, Thái Xuyên, Trần Quư Cáp, Tiểu La Nguyễn Thành, Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Lê Đ́nh Dương, Nguyễn-Tường Tam, Phan Khôi... 

Năm 1915, năm Duy Tân thứ 8, khoa trường chữ Hán chấm dứt, nhà nước bảo hộ chuyển  qua tân học, lấy Pháp văn làm chuyển ngữ chính, theo chương tŕnh giáo dục Pháp quốc, Quảng Nam lại sản xuất nhiêù tiến sĩ, kỹ sư đủ nghành: y học, dược học, luật học, toán học, vật lư học, chính trị, xă hội học,.đặc biệt nhất là sau biến cố 30-4-75, trong cuộc di tản tỵ nạn lịch sử, chuyên viên khoa học kỹ thuật Quảng Nam đua nhau nở như hoa mùa xuân ở khắp các nước tạm dung Âu, Á, Mỹ, Úc Châu khiến mọi người phải kính nể. 


C. NGŨ PHỤNG TỀ PHI (Năm chim Phụng cùng bay)  

Năm 1898, năm Thành Thái thứ 10, chiếu thông lệ, triều đ́nh Huế cứ 3 năm mở khoa thi hương, vào những năm tí, ngọ, mẹo, dậu, và 5 năm mở khoa thi hội hay thi đ́nh, vào những năm th́n, tuất, sửu, mùi. Sĩ tử Quảng Nam nói riêng,cũng như sĩ tử toàn quốc nói chung đều khăn gói lều chơng lai kinh (kinh đô Huế,Thuận Hóa) dự thị đặc biệt, khoa Mậu Tuất (1898) Quảng Nam nổi tiếng văn trường mà dân gian thường gọi là Khoa Ngũ Phụng.  Khoa này, toàn quốc có 18 tân đại-khoa th́ Quảng Nam chiếm mất 5/18 là 3 tiến sĩ và 2 phó bảng (phó tiến sĩ) đồng hương và đồng khoa, một điều hy hữu xưa nay chưa từng có tại Việt Nam. Vua Thành - Thái và triều đ́nh Huế ban thưởng danh hiệu "NGỦ PHỤNG TỀ PHI," bốn chữ kim tuyến vàng được thêu nổi trên nền gấm đỏ, trên đại kỳ  "VINH QUY BAÍ TỔ" cuả 5 vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa ấ'y và truyền lệnh cho quan, dân địa phương Quảng Nam đón rước vô cùng trọng thể, chủ đích một mặt đề cao nhân tài xuất chúng của đất nước, một mặt xương minh khuyến học cho dân sĩ tử hậu sanh noi theo. Lại cũng có người tương truyền rằng 4 chữ  NGŨ PHỤNG TỀ PHI  ấy là của Văn-Thân, được thêu trên lá cờ đi rước 5 vị tân đại khoa "vinh quy bái tổ". 

1. Năm vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa được xếp theo thứ tự như sau: 

1.1.  Ông  Phạm Tuấn :  

Tiến sĩ đệ nhị giáp, người lớn tuổi nhất, cử nhân xuất thân, đương nhiệm chức Đốc Học tỉnh Quảng Nam, quê quán làng Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng (G̣Nổi, PhùKỳ) phủ Điện Bàn, trú quán làng Bến Đề, tổng Phú Khương Thượng, phủ Điện Bàn. Theo tài liệu cuả ông Quốc Minh đăng trên báo Người Việt số 2721, ngày 15-5-93, th́ ông Phạm Tuấn đă một lần đỗ tiến sĩ, khoa thi hội Kỹ Sửu(1889), năm Thành Thái nguyên niên, nhưng v́ biến cố ở kinh đô Huế lúc bấy giờ nên kỳ thi ấ'y không được công bố và xem như hủy bỏ. Như thế nghiă là ông Phạm Tuấn 2 lần đổ tiến sĩ 2 khoa thi hội cách nhau 10 năm, 1889-1898. 

1.2. Ông Phạm Liệu: 

Tiến sĩ đệ nhị giáp, người nhỏ tuổi nhất, quê quán làng Trừng Giang, tổng Phú Khương Thượng (G̣ Nổi,Phù Kỳ), phủ Điện Bàn. 

 1.3. Ông Phan Quang: 

Tiến sĩ đệ tam giáp,quê quán làng Bàng Lănh, tổng Phú Khương Thượng (G̣-Nổi Phù Kỳ), phủ Điện Bàn, trú quán làng Phước Sơn, huyện Quế Sơn.

        1.4. Ông Dương Hiển Tiến: 

          Phó bảng, quê quán làng Cẩm Lậu, tổng An Nhơn, phủ Điện Bàn.

        1.5. Ông Ngô Lư: 
               Phó bảng, quê quán làng Cẩm Sa, tổng Phú Triên, phủ Điện Bàn.

2.  Về xuất xứ và liên hệ gia đ́nh, môn đồ. 

  • Năm vả tân đại khoa đồng hương và đồng khoa đều là người quê quán phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng- Nam.
     

  • Ba vị tân tiến sĩ đồng khoa không những quê quán cùng đồng tỉnh  Quảng Nam, cùng đồng phủ Điện Bàn, mà c̣n đồng tổng Phú Khương Thượng (G̣ Nổi, Phù Kỳ).
     

  • Hai vả tân tiến sĩ đồng hương và đồng khoa Phạm Liệu và Phạm Quang là anh em con cô con cậu, thuộc tộc Phan, làng Bàng Lănh, tổng Phú Khương Thượng, phủ Điện Bàn, và là con cháu nội ngoại xa gần, đồng thời là môn đồ của cụ Tú Thất Khoa (7 khoa tú tài) Phan Thế Huân,và cụ Tú Ngũ Khoa (5 khoa tú tài) Phan thế Tiên húy Nguyên, trú quán làng Cổ Tháp, tổng Mậu Hoà, Phủ Duy Xuyên. 

3.  Về văn bài. 

Theo tài liệu do ban giám khảo trường thi Hội khoa Mậu Tuấ't (1898) lưu chiếu tại Quốc Tử Giám của triều đ́nh nhà Nguyễn th́: 

  • Văn bài cuả tiến sĩ Phạm Tuấn xuất sắc về thâm thúy, trong sáng, chững chạc, đáng bậc mô phạm gương mẫu.
     

  • Văn bài của Tiến Sĩ Phạm Liệu xuất sắc về bay bướm, âm điệu, phong nhà, đ'ang bậc tuổi trẻ tài hoạ

4. Về thơ tặng

Đương thời ở Quảng Nam, cụ Đào Tấn, hiệu Tô Giang, tiểu hiệu Mai Tăng, ququê quán xă Vĩnh- Thạnh, quận Tuy Phước, tỉnh B́nh Định, tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Măo (1867) là tác giả các vở tuồng hát bộ: Hộ Sanh Đường, Khuê Các Anh Hùng, Trầm Hương Các, Ngũ Hổ B́nh Tây, Tống Địch Thanh...nổi tiếng mà ngày nay thường được tŕnh diễn, làm Tổng Đốc, có tặng mỗi ông tân tiến sĩ một bài thơ mà các cổ nho ngày nay c̣n truyền tụng: 

     4.1._Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Tuấn: 

                          Vận hội tuần hoàn ngũ thập niên, 
                          Thử ban tương kế xuất danh hiền.
                          Trúc-ba nhân khứ, Hà-ba tại,
                          Nhụy bản du truyền Giáp Ất tiên. 

                  Tạm dịch: 

                         Năm mươi năm hội tuần hoàn,  
                         Tôi hiền liên tiếp nảy vang đất này.
                         Cụ Hà đó, cụ Trúc đi,(*)  
                         Bút tiên Giáp Ất tên ghi bảng vàng. 

  (*) Trúc ba chỉ cụ Trúc Đường Phạm Phú Thứ đă từ trần; Hà ba chỉ cụ Hà Đ́nh Nguyễn Thuật đang c̣n sống lúc bấy giờ. 

      4.2._ Bài thơ tặng tiến sĩ Phạm Liệu: 

                        Chiết quế nhơn tùng nguyệt diện lai,
                        Đ́nh bôi vị vấn thiếu niên tài.  
                        Khán hoa mă quá song kiều lộ,  
                        Thùy vị nam nhi đệ nhất mai. 

                Tạm dịch: 

                         Bẻ về cành quế Hằng Nga,  
                         Chén nồng xin hỏi trẻ mà tài cao(**)
                         Xem hoa cưởỉ ngựa qua cầu,
                         Cành nam ai kẻ trổ đầu hoa mai. 

  (**) Ông Phạm Liệu lúc thi đổ tiến sĩ c̣n trẻ tuổi.  

       4.3._ Bài thơ tặng tiến sĩ Phan Quang : 

                         Giang sơn thành thục dị tài đa,
                         Tam quế tề khai nhất dạng hoa,
                         Cảnh hữu Quảng Hàn cung tại khách,
                         Dũ tương thể bút tả Hằng Nga. 

               Tạm dịch:  

                         Non sông un đúc lắm tài cao,  
                         Ba cụm đơm bông quế một màu.
                         Có khách Quảng Hàn vừa mới đến,  
                         Bút hoa tô nét nguyệt thanh tao. 

5.  Về thân thế và sự nghiệp .

5.1._ Tiến sĩ Phạm Tuấn nổi tiếng làm câu đối chữ Hán và chữ Nôm rất hay, rất thâm thúy, c̣n được truyền tụng: 

                    

a.)_ Câu đối ở miếu trong vườn: 

                              Hữu đức, hữu Nhơn, kim hữu hữu,
                              Như Thần, như Tại, hựu như như. 

                    

b.)_ Câu đối ở chùa Xuân Đài (làng chánh quán): 

                              XUÂN thâm mặc chứng kim sanh QUẢ,
                              ĐÀI cổ thường khai tích thọ HOA. 

( Cụ Phan Bội Châu khi kinh qua đây, đọc câu đối, rất lấy làm khen ngợi) 
 

c.)_ Câu đối ở chùa Bến Đền (làng trú quán) 

                             Sơn thủy chung linh tư hữu tự,  
                             Quỷ thần giáng phước tín vô tư.
 

d.)_ Câu đối làm cho triều đ́nh Huế đi phúng điếu Cần   Chánh Đại  Học Sĩ Nguyễn Thân, người có công giúp Pháp đánh dẹp Phong Trào Cần Vương: Phan Đ́nh Phùng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn- Duy Hiệu ở Quảng Nam: 

                        Sinh như ông, tử như ông, sinh tử như ông - BẤT 
                        Công cái thế, danh cái thế, công danh cái thế - VÔ 

( Nghe đâu ông Nguyễn Hy con của Nguyễn Thân, kỷ sư ở Pháp về, nghe dư luận đàm tiếu về câu đối này, đă phát đơn kiện ông Phạm Tuấn về việc mạ lỵ thân sinh ông. Ông trả lời là hăy xem trong câu đối, ai là người đứng tên đi, rơ ràng là triều đ́nh Huế, vậy hăy kiện triều đ́nh Huế chứ sao lại  kiện tôi. Thế là hoà cả làng !

Suốt 35 năm làm quan (1898-1913), ông chuyên rách ngành giáo dục, qua các chức vụ Huấn Đạo, Giáo Thọ, Đốc Học ở các tỉnh miền trung và 4 lần cử làm sơ khảo (189, phúc khảo (1894), giám khảo (1897), Ở các trường thi Hương B́nh Định; và các phân khảo (1900) ở trường thi Hương  Nghệ An.

 Ông có 3 đời vợ, nhưng các con trai ông đều hữu sinh vô dưỡng, nên cuối cùng vô tự.  Năm1913, năm Duy Tân thứ 7, ông hưu trí với hàm Hồng Lô tự Khanh. 

          5.2._ Tiến sĩ Phạm Liệu văn hay chữ tốt, hoạn lộ hạnh thông, nhất là sau ngày ông đă thiếu b́nh tĩnh đánh mất sĩ khí  Quảng Nam , đang tâm bán rẽ lương tâm và linh hồn cho bọn thực dân Pháp để mưu cầu chút hư danh tục đế bằng cách mật báo cơ mưu, ngày giờ và địa điểm khơỉ nghĩa chống Pháp của Vua Duy Tân và Việt Nam Quang Phục Hội cho Công Sứ Pháp Dc Taster và Tuần Phủ Trần Tiễn Hối ( hậu duệ của Phụ Chánh Trần Tiến Thành ) ở Quảng Ngĩa. Và do đó, Khâm- Sứ Charles liền bí mật ban hành lệnh giới nghiêm , tuớc khí giới tất cả quân lính  Việt Nam , bố trí người đặc biệt theo dơi t́nh h́nh và chuẩn bả sẵn sàng đàn áp .  Kết quả cuộc cách mạng chống Pháp của  Vua Duy Tân và  Việt Nam  Quang Phục Hội miền Trung, khuya ngày 3 rạng ngày 4 tháng 5 năm 1916 ( 1-2 tháng 4 năm Bính Th́n) đă thất bại từ trong trứng nước. Sau đó, Án Sát Sứ Phạm Liệu được thăng chức Phủ Thừa tỉnh Thừa Thiên và tuần tự thăng dần đến Thượng Thư Bộ Binh ở triều đ́nh Huế, rồi Hiệp Tá Đại Học Sĩ với tước Trừng Giang Nam trí sĩ. 

Ông có 4 đời vợ và con trai không đông, nhưng hầu hết,con trai ông đều chết trẻ, trước khi lập gia đ́nh. 

         5.3_ Tiến sĩ  Phan  Quang đường tiến thân khá bằng phẳng không có ǵ đáng ghi nhận. Ông làm quan đến chức Thượng Thư ở triều đ́nh Huế, rồi Trí Sĩ (cụ Thượng Phước Sơn). 

Ông có 3 đời vợ và con trai trưởng là giáo sư Phan Khoang, một học giả, một sử gia, một nhà văn hữu hạng tại đất thần kinh Huế. 

         5.4._ Phó bảng Dương Hiễn Tiến sau khi vinh quy bái tổ, chưa kịp thi thố tài năng phục vụ đất nước và đồng bào th́ thất lộc. 

        5.5._ Phó bảng Ngô Lư. Theo truyền thuyết dân gian,địa phương, ông Ngô Lư nguyên quán không phải ở Cẩm Sa, nhưng lư trưởng Cẩm  Sa thời ấ'y có ăn tiền lót của ông nhiều ít ǵ đó, mới nhận thực cho ông khai tam đại tại làng đễ lập hồ sơ đi thi.  Không ngờ sau ông đổ Phó  Bảng ra làm quan. Chúng thấy vô cớ mà rước một ông  Tiên Chỉ ở đâu về ăn trên ngồi trước trong làng, nên bọn lư hương âm mưu với nhau ếm mă cụ thân sinh ông, và sau đó ông Ngô Lư chết v́ bạo bệnh tại huyện đường tỉnh Nghệ An.Việc ấy sau này Văn thân Quảng Nam biết được, phát đơn kiện và bọn lư hương Cẩm Sa bị án.(Trích tài liệu trong " Quảng Nam Nhân Vật Liệt Chí" của Nguyễn Bội Liên biên soạn, do ty tiểu học Quảng Nam xuất bản năm 1969).

Để kết luận, chúng ta là những người dân xứ  Quảng có hănh diện và có nhắc nhở đến " Ngũ- Phụng Tề Phi "  là chỉ hănh diện và nhắc nhở cáí tài học cao biết rộng, văn hay chữ tốt, về phương diện văn chương khoa bảng mà thôi, chứ về phương diện an bang tế thế, ích quốc lợi dân, theo như ḷng dân xứ Quảng hằng mong muốn th́ không có ǵ đáng được lưu ư đề cao cả.

Đất Quảng Nam, ngoài " Ngũ Phụng Tề Phi " khoa Mậu Tuất (1898) c̣n có:

       1._ Khoa Tân Sửu (190 4 vị đỗ Phó bảng đồng khoa và đồng hương là ông  Nguyễn Đ́nh Hiến (Trung Lộc,Quế Sơn), Ông Nguyễn Mậu Hoán (Phú Cốc,Quế Sơn), Ông Vơ Vỹ (An phước,Thăng B́nh), Ông Phan Châu Trinh (Tây Lộc,Tiên Phước) mà dân gian thường mệnh danh là " TỨ KIỆT "

       2._ Trong 4 khoa thi Hương liên tiếp là khoa Đinh Dậu (1897), khoa Canh Tư (1900), khoa Ất Măo (1903), khoa Mậu Ngọ (1906),  có 4 vị đỗ thủ khoa là: ông Phạm Liệu (Trừng Giang, Điện Bàn), ông Vơ Hoành  (Long Phước, Duy Xuyên ), ông Nguyễn Đ́nh Hiến (Trung Lộc,Quế Sơn ), ông Huỳnh Hanh tức Huỳnh Thúc Kháng (Thanh B́nh,Tiên Phước) mà dân gian thường mệnh danh là " TỨ HỔ ". Như vậy:

             *  Ông Phạm Liệu vừa là "Ngũ Phụng Tề Phi" vừa là " Tứ Hổ ".

             *  Ông Nguyễn Đ́nh Hiến vừa là " Tứ Kiệt " vừa là  " Tứ Hổ ".

Ngoài những danh sĩ kế tiếp nhau tranh khôi đoạt giáp nói trên,các vị Cử Nhân, Tú Tài, th́ khoa nào cũng có, nhưng có một số trong quư vị ấy không ra làm quan, lại ngồi tại làng mở trường dạy học truyền bá triết lư và đạo đức thánh hiền, xây dựng hương chính địa phương, bảo đảm nền thịnh vượng và hạnh phúc chung cho nhân dân, hay viết sách,viết báo cổ động nền Tự Do, Dân-Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam.

Nhưng tiếc thay, thời vàng son ấ y nay c̣n đâu ! ?

                                      Garden Grove, ngày 30-10-1993.

Xem tiếp với bài:
Đà Nẵng Qua Cái Nh́n
Địa Lư, Văn Hóa, Lịch Sử
*
Trần Quốc Vượng  

Đà Nẵng với sông Hàn - cửa Hàn - vịnh Hàn và bán đảo Sơn Trà, là một cảnh thị rất tốt của miền Trung, của cả Việt Nam.  Cái tên Hàn, tôi thấy trong thơ Đường :

" Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền"


Lại cũng thấy bến đ̣ Hàn ở Ninh Giang - Vĩnh Bảo, Hải Dương, thoạt cứ ngỡ là tên chữ Hán tự, hóa ra Hàn-Hat-Hac (như "Hát Môn" ở Sơn Tây - Hắc Hải ở Quảng B́nh) là tiếng melaya cổ, chỉ bến sông, cửa sông.

Đà Nẵng vốn là một thành phần hữu cơ của xứ Quảng, của tỉnh Quảng Nam. Tây thực dân tách Tourane - Đà Nẵng- một cái tên gốc Chàm- ra thành "nhượng địa" kiểu Tây. 
Chiến tranh và Cách mạng lại gắn bó Quảng Đà với nhau.

Nay do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Đà Nẵng lại tái lập là thành phố trực thuộc trung ương, nhưng tất nhiên vẫn phải liên lạc với Quảng Nam. Về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa xă hội vẫn phải đặt Đà Nẵng trong bối cảnh xứ Quảng, nếu như chúng ta muốc có một cái nh́n khoa học.

Đà Nẵng nằm ở phía nam chân đèo Hải Vân, mà Sơn Trà - cũng cấu tạo địa chất - là sự nối dài ra biển, một sự đâm ngang, của dăi cuối Trường Sơn nam - có người gọi là Nam Sơn.

Từ Hải Vân trở vào nam của đồi rừng á xích đạo. Đà Nẵng - xứ Quảng không có mùa khô rơ rệt, do tác dụng bức chấn của khối núi bắc Kontum nên trong mùa gió đông bắc lượng mưa c̣n đáng kể. Hải Vân như một bức tường thành làm giới hạn cuối cùng cho cái mùa đông gió bấc lạnh lùng của miền bắc nước ta.

Đà Nẵng - xứ Quảng không có mùa đông v́ nhiệt độ trung b́nh các tháng đều trên 20 độ C, mấy tháng đầu năm, khí trời dịu mát, khô ráo; tháng 5 đến tháng 8, bầu trời ixanh ngắt, nắng hắt xuống cồn cát trắng xóa, mặt biển thẩm lại, gần như chuyển sang màu tím.  Mùa nắng lại không phải là mùa mưa v́ dăi Trường Sơn chắn gió mùa tây nam từ vịnh Bengale thổi tới. Mưa lệch pha với hai miền bắc bộ và nam bộ, bắt đầu từ tháng 9, tháng 10 (mưa hội tụ nội chí tuyến và tiếp theo là mưa địa h́nh) Gío bấc thổi mát từ biển vào, đưa tới Đà Nẵng- xứ Quảng những trận mưa kéo dài nhiều ngày rả rích. Đây là mùa thu của miền Trung và cũng là mùa băo lũ. Mưa giảm dần về cuối năm và sang giêng th́ kết thúc.

Bờ biển Đà Nẵng - xứ Quảng vốn khúc khuỷu nhưng đă được san bằng qua phương thức cồn cát-đầm phá, các mơm núi nhô ra biển được nối liền bởi các dải cồn, hải lưu chảy nhanh hơn bùn sét do hệ sông Vu Gia - Thu Bồn mang ra đă ít, lại bị cuốn đi xa nên ven biển gồm toàn cát trắng xám. Cũng v́ thế mà có nhiều băi tắm đẹp, tốt như Tiên Sa, Non Nước, Mỹ Khê.

Sóng gío biển vun cát nên cồn trong khi sông tải phù sa ra biển. Sông và biển phối hợp nhau tạo nên đất nước, và ảnh hưởng vào văn hóa con người. 

Lănh thổ Đà Nẵng trải dài tới vùng Non Nước - Ngũ Hành Sơn (Lạ một điều, trên các bản đồ Mỹ và bản đồ du lịch, người ta cứ kư hiệu vùng Non Nước- Ngũ Hành Sơn là China beach (băi biển Trung Hoa). Đó là điều tối kỵ, mong sở du lịch Đà Nẵng lưu tâm sửa đổi).

Như thế, Đà Nẵng nay bao gồm cả lưu vực sông Vĩnh Điện ( Câu Nhí) ngă ba Điện Ngọc. Ta nhớ đến câu ca dao xưa ở thế kỷ XIX :

"Từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí, đắp đàng Bông Miêu"


Câu này dễ gây hiểu lầm. Câu Nhí (xă đầu sông) vốn là một từ gốc Chàm như Cổ Mân (xă cuối sông nơi hợp lưu với sông Cẩm Lệ). Sông Câu Nhí Vĩnh Điện vốn là sông tự nhiên nối Thu Bồn và Cẩm Lệ, để mở ra cửa Hàn theo Đại Nam Nhất Thống Chí (chép ở quyển 7 tỉnh Quảng Nam) :  "Sông ấy khuất khúc, lâu ngày bị bồi đắp, năm Minh Mạng thứ 3 (1822) ... khai nhân sông cũ mà đào từ xă Cau Nhí đến xă Cẩm Sa (thôn Cu-Đê)". Sông này cũng như cảng Đà Nẵng đă được khắc h́nh tượng vào Du đỉnh đặt ở kinh thành Huế.

Ở châu thổ sông Vu Gia- Thu Bồn có những sông con hay sông nhánh, với thời gian đắp đổi, thường bị đổi ḍng hay bị phù sa lấp cửa, lâu dần thành loại sông "nửa kín nửa hở" hay thậm chí thành "sông lấp" hay thành "sông chết". Dù nhu cầu thủy lợi, giao thông ngày nươc quân chủ ngày trước và nhà nước dân chủ sau này phải tổ chức đào lại và thường nắn ḍng chảy cho thẳng hơn, thậm chí đặt lại tên sông nữa, nên về sau, nếu ta không nh́n nhận kỹ, cứ ngỡ là sông đào, kiểu "kênh máng" Tôi đă đi điền dă ở lưu vực và trên ḍng sông Vĩnh Điện từ "cửa vào" gần sông Câu Lâu trên sông Thu Bồn (địa phận thị trấn Vĩnh Điện) đến Cu Đê- Cẩm Sa và tôi biết chắc đây vốn có ḍng chảy tự nhiên, đi thuyền được. Cũng vậy, có một ḍng sông chảy ṿng vèo dọc bờ biển nối cửa Hàn và Hội An, dân gian xứ Quảng đến nay vẫn gọi là sông Cổ C̣, nay bị lấp nhiều chỉ c̣n từng đoạn mà trên từng đoạn ấy (nhất là phía gần Hội An) vẫn có thể đi thuyền được. Hơn ai hết, nhà khảo cổ cần phải biết về những ḍng sông cũ đó v́ từ thời đại đá mới sơ kỳ kim khí trở về sau, các di chỉ văn hóa- tức là những làng mạc cổ - thường phân bố trên các đồi - g̣ đất cao (miền bắc đồi g̣, miền trung cồn dăi cồn, miền nam giồng) đó là những làng ven sông hợp với những làng ven đồilàng ven biển tạo nên mạng lưới làng quê Việt Nam với phức thể kinh tế nông- công- thương-chài. Khảo cổ học Đà Nẵng- xứ Quảng sau giải phóng (30-4-1975) đă phát hiện được những di chỉ Điện Ngọc (có ŕu đá, ŕu đồng, gốm thô pha cát...) Hỏa sơn (sườn núi Hỏa trong hệ thống Ngũ Hành Sơn, chân núi là cồn cát cổ) thuộc phức hệ văn hóa Sa Huỳnh, tuổi (qua xác định bằng phương pháp phân tích cũ) từ 2000-2500 năm trở về trước mà chủ là những cư dân nói tiếng melayu cổ - tiếng Chăm.

Trong một hang động thuộc Ngũ Hành Sơn nay đă h́nh thành chùa Việt, gần chục năm về trước, nhà sư và giới khảo cổ đă phát hiện được một số di tích kiến trúc - điêu khắc đá Chàm cổ niên đại X - XI và muộn hơn, Hội An và Cù Lao Chàm cũng đă t́m thấy phế tích tháp, giếng Chàm, tượng và điêu khắc Chàm niên đại sớm muộn trước thế kỷ XV. Chính ở phía ngoài bến cá - chợ cá Đà Nẵng bên kia bán đảo Sơn Trà (sách cũ như Đại Nam Nhất Thống Chí chép là Trà Sơn- núi của người Trả = Chăm trước thế kỷ XV cũng có làng Cu Đê của người Chăm với sông Cu Đê của Cu Đê. tấn biển (trấn hải) Cu Đê cùng Tấn biển Đà Nẵng là chỗ hai ḍng sông Cẩm Lệ và Vĩnh Điện chảy ra biển.

Đại Nam Nhất Thống Chí (q.VII- Quảng Nam (tỉnh) chép: "Vũng Sơn Trà (tức vũng Thùng-TQV) ở phía bắc huyện Ḥa Vang, lại có tên là vũng Đà Nẵng. Phía đông là núi Trà Sơn (Sơn Trà nay - TQV), phía bắc là núi Hải Vân, phía tây là tấn Cu Đê, dài rộng ước 25 dặm linh (có lẻ), phía đông nam là vũng Trà Sơn (tức vịnh Hàn-TQV) là vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió; tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đổ tại đây"

Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập chép rằng : Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1471_TQV), đóng quân ở Hải Vân Quan, đêm khuya không ngủ, vừa đứng ngắm núi biển, đèo, mây, nước, có câu thơ:

Tam canh dạ tĩnh Đông Long Nguyệt
Ngă cố phong thanh Lộ Hạc thuyền


dịch:

Trăng Đông Long ba canh đêm tĩnh
Thuyền Lộ Hạc năm trống (canh) gió thanh

Đông Long là tên vùng biển nam Hải Vân; Lộ Hạc là tên nước (Locac= bán đảo Mă Lai nay - TQV), người nước này hay đi thuyền đến đây buôn bán.

Như vậy là rơ: Trước thế kỷ XV, Đà Nẵng đă là Cảng Quốc Tế. Trên đă nói sông Cổ C̣ nối cửa Hàn Đà Nẵng và cửa Đại Hội An. Đà Nẵng - Hội An là một phức cảng thị quốc tế, thuyền buôn quốc tế từ bắc xuống, qua cửa Hàn, theo sông Cổ C̣ qua Ngũ Hành Sơn vào vụng Trà Quế mà tới Hội An; từ phía nam lên, theo sông Trường Giang (cũng chảy dọc ven biển từ Thăng B́nh tới Duy Xuyên nay) vào vụng Trà Nhiêu mà tới Hội An buôn bán.

Cuối XVIII - XIX, sông Hội An với các vụng Trà Nhiêu, Trà Quế bị lấp cạn dần, thuyền máy hơi nước tải trọng lớn ra vào Hội An bất tiện (ghe bầu th́ vẫn được nên dần dà Hội An phải nhường bước cho Đà Nẵng thành cảng thị quốc tế chính ở miền Trung.


Trần Quốc Vượng
(tạp chí Xưa ,Nay số 54B tháng 8-1998,VN)

* trân trọng xin phép và cảm ơn tạp chí Xưa & Nay, giáo sư Trần Quốc Vượng.  Đặc biệt cảm ơn nhà thơ Hà Nguyên Dũng đă chuyển bài.

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17