|  | Cặp Rắn Tu ở Chùa Trà Am (Huế) 
			
			LƯ TRƯỜNG TRÂN
			 
			Năm 1940 là năm mà Việt Nam và toàn cơi 
			Đông Dương bắt đầu nếm mùi khói lửa của cuộc chiến tranh Mỹ Nhật tại 
			Thái B́nh Dương lan rộng, và năm ấy tôi đang học tại trường Khải 
			Định Huế. Con nhà nghèo xứ Quảng ra chốn Thần Kinh để học một trường 
			lớn có danh tiếng là một may mắn nhất của thời ấy. Được vậy là nhờ 
			sự cố gắng vượt mức của bản thân, và nhờ sự giúp đỡ của một người 
			anh bà con về mặt tài chánh. Ông này thỉnh thoảng từ Quảng Nam ra 
			Huế để thăm viếng một người bà con đang xuất gia và đang tu tập tại 
			Chùa Trà Am Huế.
			Chùa Trà Am, sau đổi tên Mật Sơn Tự, là 
			một ngôi chùa nhỏ, nằm sau lưng núi Ngự B́nh. Muốn đến chùa, phải đi 
			theo con đường đất đỏ, chạy sau lưng núi từ phía An Cựu, rẽ qua trái, 
			băng qua một gịng suối, đi ngang trước nghĩa trang của gia đ́nh họ 
			Nguyễn Khoa, nép theo các hàng tre xanh dẫn đến cổng chùa. Ngôi chùa 
			này cũng như bao nhiêu ngôi chùa ở Huế, có vườn mít, chuối, chè xanh, 
			có một hàng trúc cao bao bọc. Chùa này thuộc loại chùa nghèo, vách 
			xây, mái lợp ngói âm dương, sân chùa lát gạch, bên trong chánh điện 
			lát xi măng, cách xa phía sau chùa khoảng 100m, có ba ngôi tháp mộ 
			của các vị trụ tŕ đă viên tịch. Mỗi lần anh tôi ra thăm người bà 
			con tại chùa là mỗi lần tôi tháp tùng anh tôi để viếng chùa, lễ Phật, 
			và nếu gặp dịp nghỉ lễ vài ngày, th́ tôi ở lại chùa với anh tôi 
			trước khi trở về đất Quảng.
			Điểm sâu đậm đặc biệt ám ảnh măi trong 
			tôi, mỗi khi nhớ Huế là nhớ đến cặp rắn tu ở chùa này. Trong chuyến 
			viếng chùa lần đầu tiên, khi sương chiều buông xuống sau sườn núi 
			Ngự B́nh, và sau khi tiếng chuông công phu chiều vừa chấm dứt th́ 
			người bà con của anh tôi cho biết là trong chùa này có cặp rắn khổng 
			lồ dưới đất của các ngôi tháp, vào đợt công phu lúc 3 giờ sáng 
			thường hay ḅ vào chánh điện để nghe kinh, và xong thời kinh, th́ ḅ 
			lại về hang dưới tháp. Theo lời người ấy cho biết th́ cặp rắn này ở 
			chùa này đă lâu, rất hiền, không nguy hiểm, không đáng sợ, v́ trong 
			mấy năm tu ở đây, ông ta chưa bao giờ thấy hay nghe nói cặp măng xà 
			này làm hại ai cả, mặc dù ngoại h́nh dễ làm cho người nào gặp lần 
			đầu cũng phải khiếp đảm v́ sự to lớn của thân h́nh bởi những khoang 
			rằn ri màu vàng và đen sọc trên các vảy dày sắp lớn trên ḿnh. Chúng 
			tôi đang nghe kể lại về chuyện cặp rắn tu th́ Thượng Tọa Viện Chủ 
			Chùa bước đến. Với nụ cười hồn nhiên và đôn hậu của một vị chân tu, 
			ông ta nói thêm rằng đừng sợ sệt hay lo lắng chi cả, nhưng lúc đầu 
			chưa quen, th́ cứ ngồi yên trên giương, rút chân lên, để xem cặp rắn 
			ḅ vào nghe kinh. Với sự ngạc nhiên pha lẫn niềm lo sợ, tôi đánh bạo 
			hỏi T.T. Viện Chủ sao không đuổi cặp rắn ấy vào núi, mà để ở gần 
			chùa như vậy, có thể làm hại đến tánh mạng của các vị tu hành, hay 
			các Phật Tử hành hương, th́ Thượng Tọa trả lời rằng: “Chùa chiền là 
			nơi thanh tịnh để chúng sinh t́m đến tu tập, nay chúng sinh đă đến 
			đây tu hành nghe kinh thính pháp, mà đuổi họ (chỉ cặp rắn) đi th́ 
			không hợp đạo lư, hơn nữa, họ không làm ǵ hại đến ai cả, vả chăng 
			muốn đuổi họ đi, th́ không ai có đủ sức đuổi họ, hăy
			chờ thời công phu sáng, th́ quư vị sẽ 
			thấy họ, và chứng kiến sự hiền ḥa của họ.
			Nghe T.T. Viện Chủ giải thích như trên, 
			chúng tôi cũng tạm yên tâm, song chưa hết thắc mắc, nằm trên giường 
			nghĩ miên man, mà ngủ hồi nào không hay, đến khi nghe các tiếng 
			chuông của đại hồng chung ngân vang, chúng tôi mới thức giấc, bèn 
			ngồi xổm dậy, xem đồng hồ th́ đă 3g30 sáng, và buổi công phu sáng 
			bắt đầu. Tiếng chuông đại hồng kèm theo tiếng niệm danh hiệu các vị 
			Phật của chú tiểu sa di vừa chấm dứt, các đèn dầu và nến được thắp 
			sáng th́ T.T. Viện Chủ, đắp y hậu chỉnh tề, bước lên chính điện để 
			niệm hương thỉnh Phật. Xong phần này, Thượng Tọa ngồi trên tọa cụ, 
			một tay chuông, một tay mơ bắt đầu tụng kinh. Độ 5 phút sau, khi 
			chúng tôi c̣n ngồi xổm trên giường tre, th́ bỗng nghe những tiếng 
			đập bạch bạch dưới nền chánh điện, và qua ánh đèn dầu và đèn nến, 
			chúng tôi thấy rơ ràng một con rắn to, dài độ lm50, thân h́nh tṛn, 
			óng ánh xanh như một ống tre luồng cỡ bằng trái chân người, trên đầu 
			có một cái mồng đỏ như mồng gà trống, nhưng mồng không đứng thẳng mà 
			ngả sang một bên, giống như đội một mũ ca-lô trên đầu. Tiếng đập 
			bạch bạch dưới đất là do cái đuôi rắn đập xuống nền, khi di chuyển, 
			v́ h́nh như có phần cuối của đuôi bị cụt. Tiếp theo sau là một con 
			rắn khác thân h́nh đen nhánh, vẽ từng khoang, dài độ 2m50, nhưng cái 
			mồng đỏ trên đầu th́ nhỏ hơn và đứng thẳng đang ḅ vào, nhẹ nhàng ít 
			tiếng động hơn. Ḅ qua cửa xong, th́ 2 con chia làm 2 hướng, ḅ 
			thẳng về phía bàn thờ, leo lên bàn thờ, và quấn tṛn mỗi con một 
			bên, gác đầu lên ḿnh, nằm nghe kinh. Đứng xa ngó vào bàn thờ, người 
			ta có cảm tưởng như 2 chồng vỏ xe hơi, sắp lên nhau, thấy mà lạnh 
			gáy. Sau này khi hỏi tại sao một cặp rắn mà con ngắn con dài, 2 mồng 
			trên đầu lại khác nhau, th́ người bà con, tu trong chùa, giải thích 
			rất trịnh trọng, bằng cách gọi 2 con rắn ấy là "ông dài" và "ông 
			cụt". Ông cụt là có rắn đực, có mồng lớn, ông dài là con cái, có 
			mồng ngắn. Cách đây mấy năm, cặp rắn này có thân h́nh bằng nhau, sau 
			vắng bóng một thời gian mấy tháng, khi trở về lại đây, th́ con rắn 
			đực bị cụt đuôi, có lẽ qua một cuộc hành tŕnh nguy hiểm trong rừng 
			sâu, hay sau một cuộc chiến đấu sinh tử với một con thú khác trong 
			rừng, nên bị trọng thương, ḿnh mẩy bị đầy thương tích, phải dưỡng 
			thương trong hang dưới tháp mộ mấy tháng. Và trong lúc ấy chỉ có con 
			cái vào chánh điện nghe kinh mà thôi, mỗi buổi sáng. ông ta cho biết 
			thêm, ban đêm vào khoảng khuya, lúc 12 giờ đến 1 giờ sáng, trong 
			chùa nghe những tiếng gà gáy xa xa như tiếng gáy của gà tre, th́ đó 
			là tiếng gáy của ông cụt, nhất là trong những đêm trăng sáng..., c̣n 
			ông dài th́ không bao giờ nghe gáy cả.
			Buổi kinh mai tụng vừa xong, chuông được 
			một hồi, mơ chấm dứt, trong khi T.T. Viện Chủ quỳ lạy để rút lui, 
			th́ cặp rần từ từ ḅ xuống, và trườn ra khỏi cửa như khi mới vào, và 
			tiếng động của ông cụt mỗi lúc xa lần, về hướng các tháp mộ. Trong 
			tuần trà buổi sáng, khi gặp lại Thượng Tọa Viện Chủ, ngài mỉm cười 
			hỏi chúng tôi đă thấy cặp rắn ấy chưa, và giảng thêm: “Trong các 
			kinh Phật, quư vị thường nghe nói đến 4 chữ THIÊN LONG BÁT BỘ. Là 8 
			loại chúng sánh nguyện phát tâm bảo vệ chánh pháp, hộ tŕ Tam Bảo, 
			mà rắn là một bộ môn trong bát bộ, v́ họ cũng biết nghe kinh, thính 
			pháp, tu tập hành tŕ, nên tâm linh của họ cũng thăng tiến. Và qua 
			một thời kỳ tu tập lâu dài vài ngh́n năm cũng có thể tiến hóa từ 
			ngoại vật, súc sánh đến quả vị loài người, và từ cơi người lên các 
			cơi chư Thiên, hay các vị giác ngộ và thành Phật. Quư vị c̣n nhớ, 
			ngày trước, khi đức Thích Ca đang tu khổ hạnh, ngồi dưới cội Bồ Đề, 
			trong dăy Tuyết Sơn, có nhiều ngày bị mưa lũ hoành hành các thần rắn 
			đến quấn quanh ḿnh Ngài, dùng 7 đầu x̣e ra che cho Phật khỏi mưa 
			ướt, cũng như trong các chuyện Tàu, các mỹ nữ Thanh Xà, Bạch Xà cũng 
			là các con rắn tu lâu năm, Đắc Kỷ hay Nguyệt Cô đều do những con hồ 
			ly tu lâu năm thành người v.v…”
			Được hỏi về lối sống của cặp rắn tu, th́ 
			Thượng Tọa Viện Chủ cho biết họ không ăn thịt, chỉ ăn những bó hoa 
			tàn, cúng thải ra, các vỏ bầu bí, dưa, mướp đặt dưới chân các tháp 
			mộ. Từ ấy đến nay, sau khi người bà con chuyển tu đến một chùa khác, 
			chúng tôi không có dịp trở lại Chùa Trà Am nữa, cho đến 30 năm sau, 
			có dịp đến Chùa Già Lam ở G̣ Vấp Sài G̣n, để vấn an Ḥa Thượng TRÍ 
			THỦ v́ lúc trước Ngài có một thời gian dài tu tại chùa Trà Am, khi 
			nhắc đến cặp rắn tu ở chùa này, th́ Ngài cho biết là sau ngày rằm 
			tháng 7 năm 1945, trong mùa thu, người trong chùa không c̣n thấy cặp 
			rắn vào nghe kinh ở chùa Trà Am nữa.
			Về các cặp rắn tu, tôi có duyên hội kiến 
			với Thượng Tọa THIÊN TÂM tu ở ngôi chùa sau lưng Vĩnh Minh Thiền 
			Viện ở xă ĐẠI MINH, thuộc huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Ngài cho 
			biết có làm lễ quy y cho mấy cặp vợ chồng rắn trong rừng Bảo Lộc, ra 
			quỳ xin ngài quy y dưới dạng h́nh người, và nhiều cặp rắn khổng lồ 
			đă vào khoanh tṛn trên giường trong thiền thất của Ngài, mặc dù 
			Ngài đă khóa cửa rất kỹ, v́ khi Ngài ngồi thiền, nhiều cặp rắn đă 
			nằm sát sau lưng Ngài. Các đệ tử của Ngài kể lại, trong tang lễ của 
			Ngài, khi kim quan của Ngài sắp đưa nhập pháp, kim quan được quan lộ 
			thiên để các đệ tử đến đánh lễ, th́ một cặp rắn, toàn thân màu vàng, 
			có tỏa ánh sáng, ḅ đến trước kim quan ngẩng đầu bái 3 bái, và sau 
			đó biến lẹ vào rừng cây xanh ngắt.
			Trong đời tôi, thấy rắn và nghe chuyện 
			rắn cũng nhiều như hang rần tu ở trong núi Sập trong dăy Thất Sơn, 
			con rắn thần khổng lồ Buông Ay Riêng, giữa huyện Cống Sơn giáp ranh 
			tỉnh Phú Yên và Darlac ở Rừng Lào về, nhưng không có h́nh ảnh nào 
			khiếp đảm và sống động bằng cặp rắn tu ở Chùa Trà Am, mà đă 50 năm 
			qua, h́nh ảnh cặp rắn ấy không bao giờ phai lợt, và câu nói nhẹ 
			nhàng của Thượng Tọa Viện Chủ Chùa Trà Am vẫn c̣n văng vẳng bên tai: 
			"Phật dạy: tất cả chúng sinh đều có Phật lánh, 4 loài ḅ, bay, máy, 
			cựa, đều có Phật lánh cả, nếu biết tu hành, không chóng th́ chầy, 
			đều sẽ đạt Phật tánh ấy?"   Nguồn: saigontimesusa |