Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Tiểu Sử Chùa Phước Tường

Phước Tường là một ngôi chùa cổ của thành phố Hồ Chí Minh,  chùa tọa lạc ở đường 102, KP7, P. Tăng Nhơn Phú A, Q9, Tp.HCM. Chùa theo hệ phái Bắc tông.

Chùa Phước Tường do thiền sư Linh Quang – Phật chiếu (1736-1788), đời thứ 35 thiền phái Lâm Tế khai sơn. Ngài là đệ tử Ḥa thượng Thành Nhạc - Ấn Sơn, pháp tôn của Ḥa thượng Nguyên Thiều – Thọ Tông. Chùa Phước Tường Được khai sơn vào năm 1741. Nhưng theo lời các bô lăo th́ ngôi chùa bấy giờ ở gần chợ Nhỏ (Tăng Nhơn Phú), cách địa điểm hiện nay khá xa. Sau khi Tổ khai sơn tịch, đệ tử là Tổ Thuận – Đức Ấn kế thế, rồi tiếp tục sư đệ là Tổ Chơn – Phước Quang từ chùa Phước Hưng đến thay. Ḥa thượng Phước Quang có 2 đệ tử là Thiền sư Tiên Hiền – Từ Minh (Diệu Minh). Đến năm Giáp Ngọ (1834) đời Minh Mạng, trụ tŕ đời thứ tư là Từ Minh, dời chùa đến địa điểm hiện nay, tái thiết quy mô. Sau Thiền sư Tiên Hiền, trụ tŕ chùa Phước Tường là Thiền sư Minh Huệ - Thắng Phước, Như Tần – Phước Huệ, Kiểu Lượng – Tâm Thọ. Đến đầu thế kỷ thứ XX, trụ tŕ chùa là Thích Hóa Thông. Đại sư là một tu sĩ có khí chất của một hào kiệt, tham gia phong trào Thiên Địa Hội (1913-1916) nên bị bắt tù đầy, hy sinh. Chùa Phước Tường do không có trụ tŕ bị suy sụp. Măi đến 5, 6 năm sau, bổn đạo mới thỉnh Ḥa thượng Thích Pháp Ấn về trụ tŕ. Ḥa thượng Thích Pháp Ấn là đệ tử của Ḥa thượng Minh Phương – Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên (Đức Ḥa) đă trùng tu chùa Phước Tường năm 1930. Sau khi Ḥa thượng Thích Pháp Ấn tịch, đệ tử Hồng Diệp – Bửu Ngọc kế thế ngài đă trùng tu chùa Phước Tường năm 1950, xây dựng một số công tŕnh phụ năm 1990. Trụ tŕ chùa Phứơc Tường hiện nay là ĐĐ Thích Nhựt An, đệ tử Ḥa thượng Thích Bửu Ngọc.

Chùa Phước Tường hiện nay nằm trên khu đất khá rộng, gần 3ha, ngôi chùa nép ḿnh dưới nhiều cây cổ thụ rậm như một khu rừng. Từ ngoài cỗng bước vào nh́n qua bên phải là một khu đất rộng dành cho rừng cây. Giữa cảnh ấy lại điểm thêm một vài ngôi tháp, một vài ngôi mộ cổ rêu phong th́ không đâu sánh bằng. Quả là sơn lâm hóa thành thị, thành thị hóa sơn lâm.

 

Cổng tam quan của chùa quay về hướng bắc. Trước đây chùa Phước Tường ở trên khu đất rộng không rào, không cổng. Măi đến năm 1990, Ḥa thượng Thích Bửu Ngọc mới xây một chiếc cổng h́nh cổ lâu hai bên có một đoạn rào ngắn, vẫn c̣n trống trước trống sau. Cho đến nay, chùa đă được xây lại cổng tam quan và xây rào hoàn chỉnh.

 

Chùa được xây dựng theo chữ L ngược, có trục chính và trục phụ. Trục chính là một tập thể qui mô. Kiến trúc bao gồm: chánh điện, tổ đường, giảng đường, sân thiên tĩnh, tăng đường. Trục phụ gồm Đông lan nằm bên trái trục chính.

 

Quy mô chùa Phước Tường hiện nay, tuy được trùng tu vào năm 1930, nhưng vẫn c̣n giữ được nét truyền thống. Chùa có 3 nóc xếp đọi theo h́nh chữ “khẩu” . Phía trước là tiền điện, một ngôi nhà ba gian hai chái; giữa là chánh điện, sau là giảng đường, sau rốt là nhà Giám Trai và nhà kho. Các công tŕnh này đều bằng gỗ quư, mái ngói âm dương, rêu phong cổ kính. Đa số các công tŕnh này đều thiết kế theo qui mô h́nh nhà tứ trụ, trừ các công tŕnh phía phía sau, không cần thiết. Trước đây, vách chùa và cữa chùa đều bằng gỗ và cữa chùa đều bằng gỗ, mái ngói âm dương nhiều lớp, nên nội điện mát mẻ. Nhưng càng về sau, theo khuynh hướng chung của xă hội, vách ván được thay thế bằng vách gạch kiên cố, gỗ được sơn son, đẹp mắt hơn trước.

Tiền điện có bố trí tượng Hộ Pháp. Tại đây có thờ Hộ pháp Di Đà (giữa), hai bên là Thiện hữu, Ác Hữu.

Đại Hùng Bảo Điện tức là chánh điện rộng răi. Bàn thờ chính thờ Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai), bộ tượng bằng gỗ, thếp vàng. Cũng tại bàn thờ này c̣n có thờ Di Đà Tam Tôn (Di Đà, Quan Âm, Đại Thế Chí), Thích Ca thành đạo (phong cách Khmer), Tất Đạt Đa giáng thế, Di Lặc, Kim Cương, kể cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu.  

Xung quanh chánh điện là bàn thờ Thập Điện Minh Vương, Quan Thánh Đế Quân, Phật Dược Sư, Long Vương,… Trên có tấm hoành phi khắc bốn chữ “Thôi tà phụ chính” (Đuối tà giúp chính).

 

Chùa Phước Tường cũng như các chùa ở Nam Nộ đều bày trí theo công thức “Tiền Phật hậu Tổ”. Thế nên, phía sau bàn thờ chánh điện là bàn thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 10 vị cao tăng đă trụ tŕ chùa. Tượng Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma chùa Phước Tường bàng gỗ, đă được Việt Hóa nhân chủng. Theo các nhà nghiên cứu, pho tượng này trước kia thờ bên phải bàn thờ chính, gần đây được đưa ra phía sau, để thay thế vào đó là tượng Long Vương,… Nơi đây có bức hoành phi và những câu đối hàng trăm năm tuổi.

Trước bàn thờ Tổ sư tiền bối là bàn thờ Chuẩn Đề Vương. Hai bên là bàn thờ Thập Phương bổn đạo quá văng, mà lúc sinh thời họ thường đến thăm chùa.

 

Giảng đường( tức Bác Nhă đường) là ngôi nhà khá rộng. Giữa là tượng Chuẩn Đề Vương, vị Bồ Tát Mật Tông có 3 mắt, 18 tay. Phía sau là quá đường (nơi tổ chức trai tăng), hai bên là hai bộ phản, dùng làm nơi bày tiệc chay đăi chư tăng hoặc đăi khách quư. Giảng đường là nơi học tập của của chư tăng chùa.

 

Sau giảng đường là sân Thiên tĩnh, nơi đây giống như một cái giếng trời, ở dưới có Ḥn non bộ, trên là khoảng trống giữa bốn bên mái ngói. Nơi đây nước chảy róc rách, thỉnh thoảng có vài tiếng chim kêu, giữa một không gian với những mái ngói rêu phong, lại thêm vào đó là những cặp liễn đối, bức hoành phi làm cho nơi đây đậm chất cổ kính thật không đâu sánh bằng.

Tiếp sau sân Thiên tĩnh là nhà Giám Trai. Nơi đây có bàn thờ Mẹ sanh – Mẹ Độ (bộ tượng có 7 nữ thần chính và 2 nữ thần bồng con đứng hầu). Tương truyền các vị nữ thần này rất thiêng, những gia đ́nh hiếm muộn hoặc sinh con khó nuôi đều đến đây cầu khẩn. Đặc biệt, tại bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Độ c̣n thờ một bức tượng nữ thần bằng sa thạch, có từ đời Phù Nam. Bức tượng này t́m được trong khuôn viên chùa Phước Tường, đào thấy trong ḷng đất, khi đốn một cây cổ thụ, cách nay khá lâu. Vị thần này búi tóc trên đỉnh đầu có trang sức, mắt lộ, môi mỏng. Đối diện bàn thờ Mẹ sanh – Mẹ độ là bàn thờ Quan Âm Thị Kính bồng con (đứng), và tượng Giám Trai sứ giả Bồ Tát. Tương truyền ông Giám Trai là một nông dân chất phát, chỉ có sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” mà cũng không thuộc nổi. Thế nhưng với ḷng chân thật, siêng năng công quả mà ông đă thành một vị hộ tŕ ngôi Tam Bảo.

 Đặc biệt hai bàn thờ này được tương truyền là cho xăm rất linh. Khách thập phương đến đây xin xăm rất nhiều, để biết được điềm kiết hung cho ḿnh.

 

Sau nhà giám trai là nhà bếp, công tŕnh phụ, nhà kho. Bên tây nhà Giám Trai là Hội trường, nơi các giảng sư giảng dạy Phật học cho Phật tử. Hiện nay nhà chùa xây dựng thêm nhà Tịnh Độ đạo tràng để phục vụ cho Phật tử tu học trong các khóa tu Phật thất.

 

Hiện nay chùa Phước Tường có 53 pho tượng, 13 bức hoành phi, câu đối và nhiều bao lam, thần vọng, bài vị. Bao lam chùa Phước Tường chạm trong khoảng năm 1921, lấy đề tài tứ linh, chim hạc và cây tùng, chim trĩ và hoa mẫu đơn, chim phượng và hoa sen… Tượng thờ có nhiều loại. Có tượng bằng đá, bằng đất, nhiều nhất là bằng gỗ. Một số tương gỗ ở chùa tạc vào đầu thế kỷ XIX, c̣n nét thô phát nhưng có giá trị lớn của cổ vật niên đại hàng trăm năm.

 Chùa Phước Tường đặc biệt c̣n có nhiều câu đối văn hay, chữ đẹp, chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng rực rỡ. Có ba câu đối quán thủ hai chữ “Phước Tường”:

1.    Phước hải hồng thâm, bảo phiệt độ thông thiên giới ngoại

Tường vân ái đăi, quư hào phổ ích vạn nhân gian.

(Biển phước rộng sâu, bè báu độ thông ngoài ngàn cơi

Mây lành kín mịt, quư hào độ khắp cơi nhân gian)

2.    Phước chỉ trùng hưng, bổn tự viên thành đa tín thí

Tường cơ tái đạo, dă tri mỹ lệ thiện công phu

(Nền phước trùng hưng, bổn tự viên thành nhiều tín thí

Cuộc lành tái tạo, biết rằng đẹp đẽ giỏi công phu)

3.    Phước  hải thâm ba, vạn cổ gia gia đồng nhuận trụ

Tường son tăng thúy, thiên thu xứ xứ cộng qui y

(Biển phước sông sâu, muôn thuở nhà nhà đều nhuận thắm

Núi lành thâm thúy, ngàn năm xứ xứ thảy qui y)

 

Tại chánh điện chùa Phước Tường có một câu đối rất đặc biệt:

Hiệu uông nhương, cần miễn lễ, động cù lao; quân sư phụ nhất ban kiệt lực.

Chí trung thứ, niệm từ bi, tư cảm ứng; Nho Thích Đạo tam giáo đồng tâm.

(Lật đật hấp tấp, cố gắng siêng năng, nhớ ơn sinh dưỡng; quân sư phụ thảy đều gắng sức.

Chuẩn đích trung thứ, suy nghĩ từ bi, lo sợ cảm ứng; Nho Thích Đạo ba đạo đồng tâm)   

 Nội dung câu đối này bày tỏ quan niệm đại đức theo quan niệm Tam giáo đồng nguyên. Đặc biệt, nếu viết chữ Hán, th́ câu “ Hiệu uông nhương, cần miễn lễ, động cù lao” đều có bộ “lực”. Câu “Chí trung thứ, niệm từ bi, tư cảm ứng” đều có bộ “tâm”. Nội dung và h́nh thức đều thảy đẹp cả (có tâm th́ làm việc hết ḿnh à việc học do chính bản thân ḿnh chứ không phải do thủ đoạn)

Chùa Phước Tường là di tích lich sử văn hóa cấp quốc gia, được Bộ Văn Hóa Thông tin công nhận cấp bằng ngày 27/7/1993, và công nhận là Di Tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định VH/QĐ 43 ngày 7/1/1993.   

Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 6Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 7

Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 2

 Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 3

 Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 4

 Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 5

 Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 8

 Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 9

 Chùa cổ Phước Tường - Quận 9 1

 Theo Gs.Ts Trương Ngọc Tường (Phatgiao.org)

Nguồn: Chùa Phước Tường

Post ngày: 10/19/17 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17