I. Hôn-Nhân của Dân Việt
									
									Theo phong-tục Việt, cái 
									gốc của gia-đ́nh gọi là hôn-nhân. Có 
									hôn-nhân mới có vợ chồng và con cái. 
									Mục-đích của hôn-nhân là để duy-tŕ 
									gia-thống nên việc lập gia-đ́nh là việc quan 
									trọng của đại gia-đ́nh. Việc lấy vợ lấy 
									chồng gọi là hôn-nhân, cưới xin, hôn-thú, 
									hôn-thư, hay giá-thú. Trên các giấy tờ 
									chứng-nhận, người Việt thường dùng chữ “giá-thú.” 
									“Giá” là lấy chồng, “thú” là lấy vợ. C̣n 
									hôn-thú chỉ có nghĩa là lấy vợ thôi. 
									“Hôn” có nghĩa là bố mẹ 
									nàng dâu, “nhân” có nghĩa là bố mẹ chàng rể. 
									Nghĩa tổng-quát của từ “hôn-nhân” là cưới 
									xin (marriage). Theo truyền-thống dân Việt, 
									cha mẹ thường lo cho con đầy-đủ mọi thứ kể 
									cả việc kén vợ kén chồng cho con. Chính v́ 
									thế, việc hỏi vợ và gả chồng là bổn-phận của 
									cha mẹ như đă tŕnh-bày trong các câu 
									tục-ngữ sau đây: “Trai lớn dựng vợ, gái lớn 
									gả chồng, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy.” V́ muốn 
									gia-đ́nh xứng-hợp, tức là “môn đăng (đang, 
									đương) hộ đối,” nên đă có trường hợp ngay 
									khi những đứa trẻ c̣n là bào-thai trong bung 
									mẹ, đôi bên cha mẹ đă đính-ước với nhau rằng 
									nếu về sau một bên sinh con trai và một bên 
									sinh con gái th́ sẽ gả con cho nhau. Ngoài 
									vấn đề hai gia đ́nh phải có “môn đăng hộ 
									đối”(gia đ́nh hai bên xứng đáng với nhau), 
									trai gái c̣n phải tốt-nghiệp trường cao-đẳng 
									th́ mới thành vợ thành chồng v́ “Phi 
									cao-đẳng bất thành phu phụ.”
									Ở Việt-Nam trước đây, con 
									trai mười sáu tuổi và con gái mười ba tuổi 
									đă bắt đầu có thể lấy vợ lấy chồng v́ vào 
									lứa tuổi đó, trai gái đă hiểu sự đời, bắt 
									đầu có tinh- khí, và biết giao-cấu (to have 
									sexual intercourse). Chính v́ thế mà người 
									Việt ta có câu tục-ngữ là “nữ thập tam, nam 
									thập lục.” Ở Bắc Mỹ này, trai 21 tuổi và gái 
									18 th́ được quyền tự do lấy nhau. Nếu gái 16 
									tuổi và trai 18 tuổi mà muốn lấy nhau th́ 
									phải được phép của cha mẹ. 
									Từ ngàn xưa, ở Việt-Nam 
									chúng ta, tuy rằng việc dựng vợ gả chồng là 
									quyền của cha mẹ, nhưng cha mẹ vẫn hỏi ư-kiến 
									con cái trước khi quyết-định và việc 
									thuận-t́nh của con cái ít khi bị cha mẹ 
									cản-trở. V́ cha mẹ hết ḷng thương yêu và lo 
									cho con cái nên con cái đă hết sức vâng lời 
									cha mẹ và cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Ngày 
									nay, các bậc cha mẹ chỉ đóng vai-tṛ cố-vấn 
									và thực-hiện cưới-xin khi con cái đă đến 
									tuổi hiểu biết trong việc kén chọn nhau.
									Theo truyền-thống dân 
									Việt, việc kén vợ kén chồng rất quan-trọng. 
									Sau đây là các phong-tục mà những gia-đ́nh 
									người Việt đă từng áp-dụng để kén vợ kén 
									chồng cho con: lấy vợ xem tông, lấy chồng 
									kén giống, kén con ông cháu cha, và kén gia 
									đ́nh có luân-lư đạo-đức. Kén vợ cho con, các 
									bậc cha mẹ chú-trọng đến đức-hạnh hơn là 
									nhan-sắc v́ “cái nết đánh chết cái đẹp.” 
									Thêm vào đó, các bậc cha mẹ c̣n phải xem 
									trai gái có hợp tuổi với nhau không v́ có 
									hợp tuổi nhau th́ mới ḥa-thuận, làm ăn mới 
									thịnh-vượng, và sinh con mới tốt lành. Trai 
									gái không hợp tuổi nhau th́ khi lấy nhau sẽ 
									có rất nhiều điều đáng tiếc như hay gây sự 
									với nhau, làm ăn hay bị thất-bại, con cái bị 
									hư hỏng, và vợ chồng sẽ bị ly-thân rồi ly-dị. 
									Trong sách tử-vi tướng-số có bốn nhóm tuổi 
									mà mỗi nhóm gồm có 3 loại tuổi hợp nhau gọi 
									là tam-hợp và có ba nhóm tuổi mà mỗi 
									nhóm có bốn loại tuổi xung-khắc nhau gọi là
									tứ-hành-xung. 
									Bốn nhóm tuổi tam-hợp 
									gồm có: “Thân, Tư, Th́n” hợp nhau ; “Tỵ Dậu, 
									Sửu” hợp nhau; “Dần, Ngọ, Tuất” hợp nhau; và 
									“Hợi, Măo Mùi” hợp nhau. 
									Ba nhóm tuổi 
									tứ-hành-xung gốm có: “Tư, Ngọ, Măo, Dậu” 
									xung-khắc nhau; “Th́n, Tuất, Sửu, Mùi” 
									xung-khắc nhau; và “Dần, Thân, Tỵ, Hợi” 
									xung-khắc nhau. 
									Chính v́ thế, các bậc cha 
									mẹ của hai gia-đ́nh bao giờ cũng phải so đôi 
									tuổi của cặp trai gái trước khi làm lễ 
									đính-hôn, tức là Lễ Ăn-Hỏi.
									Khi hai bên gia-đ́nh nhà 
									trai nhà gái ở xa nhau mà muốn hiểu rơ về 
									t́nh-trạng mỗi gia-đ́nh và tính-nết tài-năng 
									và đức-hạnh của con trai và con gái, họ phải 
									nhờ người làm mai-mối (Ông Mai Bà Mối) để 
									giúp việc cưới-xin. Người làm mai-mối thường 
									là người quen cả đôi bên gia-đ́nh hoặc có 
									liên-hệ gia-đ́nh với một bên. Lời nói của 
									mai-mối rất quan-trọng và có ảnh-hưởng 
									mănh-liệt để hai bên gia-đ́nh hiểu rơ nhau 
									hầu tiến tới việc quyết-định hôn-nhân cho 
									con cái. 
									 
									
									II. Tục-Lệ (Customs) về 
									Hôn-Lễ (Marriage, Wedding Ceremony) của 
									Người Việt
									
									Ở thời xa xưa, tục-lệ về 
									hôn-lễ của nước Việt ta rất phức-tạp, 
									tiền-nhân ta đă có đến sáu (6) tiến-tŕnh về 
									hôn-lễ: Lễ Nạp-Thái (kén chọn), Lễ Vấn-Danh 
									(hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của cô 
									gái), Lễ Nạp-Cát (so đôi tuổi được tốt), Lễ 
									Nạp-Tệ (ăn-hỏi), Lễ Thỉnh-Kỳ(xin cưới), và 
									Lễ Thân-Nghênh hay Nghênh-Hôn (lễ cưới). 
									Tuy-nhiên, từ đầu thế-kỷ thứ 20 (190 đến 
									nay (2004), Nước Việt Tự-Do của chúng ta chỉ 
									có ba tiến-tŕnh về hôn-lễ như sau: Lễ 
									Chạm- Ngơ, Lễ An-Hỏi, Lễ Cưới. 
									Khi đă làm Lễ Cưới ở nhà, nếu sau đó không 
									nhờ nhà thờ hay nhà chùa chính-thức làm Lễ 
									Cưới th́ phải đến khai tại cơ-quan chính 
									quyền địa-phương để xin tờ giá-thú 
									(hôn-thú hay hôn-thư). 
									 
									
										1. Lễ Chạm-Ngơ (The 
										Pre-engagement Ceremony, a Promise to 
										Marry)
									
									
									Sau khi hai bên gia-đ́nh 
									đă ưng-thuận việc hỏi vợ gả chồng cho con, 
									Lễ Chạm-Ngơ mới được cử-hành. Lễ Chạm-Ngơ 
									c̣n được gọi là Lễ Xem-Mắt v́ đây là dịp để 
									trai gái biết rơ nhau hơn và thân-nhân của 
									gia-đ́nh nhà trai có cơ-hội t́m hiểu tuổi, 
									thai-độ, và tư-cách của cô dâu tương lai lúc 
									c̣n ở nhà gái ra sao để có quyết-định làm Lễ 
									An-Hỏi và Lễ Cưới.
									Ở Việt-Nam trước đây, khi 
									tổ-chức Lễ Chạm-Ngơ, nhà trai thường đem 
									trầu cau, rượu, trà, và các loại bánh để nhà 
									gái dâng cúng gia-tiên rồi đem biếu chú bác 
									cô d́ cậu mợ. Ở hải-ngoại hiện nay, lễ-vật 
									Chạm-Ngơ của người Việt ta thường gồm có 
									những bó hoa, những tái cây, những chai 
									rượu, và những hộp trà, v.v. Sau khi đến nhà 
									gái, vị đại-diện nhà trai (ông bố của chú rể 
									tương lai) ngỏ lời với nhà gái về Lễ 
									Chạm-Ngơ. Sau đó, vị đại-diện của nhà gái 
									(ông bố của cô dâu tương lai) đáp lời chào 
									mừng và ưng-thuận. Tiếp theo đó, việc cúng 
									gia-tiên của nhà gái được cử-hành, các vị 
									đại-diện gia-đ́nh nhà trai và nhà gái cùng 
									chú rể và cô dâu tương lai đều cùng nhau 
									cúng bái. Sau khi cúng gia-tiên nhà gái, mọi 
									thân-nhân của hai gia-đ́nh hiện-diện trong 
									buổi Lễ Chạm-Ngơ đều được nhà gái mời dự 
									tiệc-trà ăn mừng Lễ Chạm-Ngơ. Sau bữa 
									tiệc-trà, họ nhà trai ra về.
									Từ Lễ Chạm-Ngơ đến Lễ 
									Ăn-Hỏi không có khoảng thời-hạn nhất-định, 
									tùy theo gia-đ́nh nhà trai và nhà gái 
									định-đoạt có khi trong ṿng 3 tháng, nửa 
									năm, hay cả năm trời. Sau ngày Lễ Chạm-Ngơ, 
									nhà trai thường lui tới nhà gái vào những 
									dịp lễ, tết, hoặc các ngày kỵ-nhật (ngày 
									giỗ) của nhà gái và mang các lễ-vật đến để 
									cúng lễ. 
									Nếu sau Lễ Chạm-Ngơ mà 
									mọi việc đều tốt đẹp giữa nhà trai nhà gái, 
									nhất là gia-đ́nh nhà trai hoàn-toàn 
									ưng-thuận nàng dâu tương-lai, th́ Lễ Ăn-Hỏi 
									sẽ được tiến-hành.
									
									 
									2. Lễ Ăn-Hỏi (Betrothal, 
									An Engagement to Marry) 
									
									Lễ Ăn-Hỏi (Lễ Đính-Hôn) 
									là lễ rất quan-trọng của việc hôn-nhân. Theo 
									phong-tục của Việt-Nam, nhà trai phải 
									đáp-ứng lời đ̣i-hỏi của nhà gái về việc đưa 
									đầy-đủ những phần lễ-vật vào ngày Lễ Ăn-Hỏi 
									như những quả cau, những lá trầu, những hộp 
									trà, những gói nem, bánh chưng, bánh dày, 
									những hộp bánh quế, bánh bích-quy, bánh 
									ngọt, heo quay, xôi gấc, và rượu, v.v. để 
									nhà gái làm lễ cúng gia-tiên và biếu 
									thân-bằng quyến-thuộc với mục-đích báo tin 
									mừng. Khi đem lễ-vật đến nhà gái trong dịp 
									Lễ Ăn- Hỏi, nhà trai tổ-chức dẫn lễ-vật một 
									cách thật trang-trọng bằng cách để các 
									lễ-vật vào hộp, xếp vào mâm, và bao-phủ bằng 
									giấy bóng (glassine paper, cellophane) màu 
									vàng và màu đỏ rồi cử người ăn mặc chỉnh-tề 
									để đi cùng với gia-đ́nh nhà trai đưa lễ-vật 
									đến nhà gái. Nếu nhà trai ở gần nhà gái th́ 
									đi bộ, nếu ở xa th́ đi bằng xe hơi. Nếu đi 
									bằng xe hơi th́ khi gần đến nhà gái, mọi 
									người phải xuống xe để đi bộ thành đoàn 
									người mang lễ-vật đến nhà gái một cách 
									trang-trọng và chỉnh-tề. 
									Ở Việt-Nam trước đây, 
									trầu cau, trà, và rượu là các lễ-vật 
									chính-yếu của Lễ An-Hỏi. Hiện này ở hải 
									ngoại này, những lễ-vật ăn-hỏi của người 
									Việt ta thường gồm có những bó hoa, những 
									tái cây, những chai rượu, những hộp bánh, và 
									những hộp trà, v.v. 
									Khi các thân-nhân của nhà 
									trai đến nhà gái để làm Lễ Ăn-Hỏi, cả nhà 
									trai và nhà gái phải cử người đứng ra 
									giới-thiệu các thân-nhân của ḿnh trước khi 
									cha mẹ của nhà trai ngỏ lời về Lễ Ăn-Hỏi. 
									Sau đó, cha mẹ nhà gái đáp lời ưng-thuận và 
									chào mừng nhà trai. Tiếp đó, cha mẹ nhà trai 
									và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tượng-lai 
									đều cúng gia-tiên của nhà gái. Sau khi cúng 
									gia-tiên tại nhà gái, mọi người hiện-diện sẽ 
									được cha mẹ nhà gái mời ăn tiệc-trà ngay ở 
									đó. 
									Khi nhà gái nhận Lễ 
									An-Hỏi tức là đă chính-thức chấp-nhận việc 
									gả con gái cho nhà trai. Sau ngày Lễ Ăn-Hỏi, 
									khi nhà gái đem các lễ-vật ăn hỏi như quả 
									cau đi biếu thân-bằng quyến-thuộc th́ phải 
									biếu mỗi phần 3 quả hay một quả chứ không 
									bao giờ biếu hai quả v́ hai quả có ư nghĩa 
									thô-tục. Ngày nay, nhà gái c̣n kèm theo 
									lễ-vật một tấm thiệp báo-hỷ để tặng 
									thân-bằng quyến-thuộc.
									Sau Lễ Ăn Hỏi, chàng rể 
									tương-lai c̣n phải đem lễ-vật đi lễ tết (sêu 
									tết, to present gifts to one’s bride’s 
									family) bố mẹ vợ tương-lai vào những ngày 
									tết và vào 4 mùa bằng cách mùa nào thức ấy. 
									Điều này có nghĩa là vào dịp Tết Nguyên-Đán, 
									Tết Thanh-Minh, Tết Đoan-Ngọ, Tết 
									Trung-Nguyên, Tết Trung-Thu, và những ngày 
									giỗ chính của nhà gái, chàng rể tương-lai 
									phải mang đồ lễ tới gia-đ́nh nhà vợ 
									tương-lai để biếu và lễ bái; vào mỗi mùa có 
									hoa quả bánh trái đặc-biệt, chẳng hạn như 
									vào tháng ba có quả vải vỏ đỏ vị ngon ngọt; 
									vào tháng năm có dưa hấu; vào tháng bảy có 
									quả na và quả nhăn; vào cuối tháng chín sang 
									tháng mười có cốm, hồng, và gạo mới, v.v.; 
									và vào tháng chạp th́ có cam có mứt. Sau khi 
									chàng rể tương-lai mang lễ-vật lại, bao giờ 
									nhà gái cũng lấy một nửa số lễ-vật, c̣n một 
									nửa lễ-vật nhà gái biếu lại nhà trai, gọi là 
									“lại-quả.” 
									Ngày xưa, sau Lễ Ăn-Hỏi, 
									ở một vài nơi tại Việt-Nam c̣n có tục-lệ 
									“gửi rể” (a future son-in-law living in his 
									future wife’s family). Chú rể tương-lai phải 
									đến ở nhà gái và đi học trong ṿng bốn năm 
									năm để thi đỗ rồi mới được cưới vợ. Chính v́ 
									thế mà ta mới có câu tục-ngữ: “Phi cao-đẳng 
									bất thành phu phụ.” Sau Lễ Ăn-Hỏi và 
									sêu-tết, nhà trai phải bàn-thảo và đề-nghị 
									với nhà gái đề ấn-định ngày làm Lễ-Cưới.
									
									 
									3. Lễ Cưới (Wedding, The 
									Ceremony of Marriage with its Accompanying 
									Festivities)
									 
									a.Thách-Cưới
									
									Hồi trước đây ở Việt-Nam, 
									khi đồng-ư để nhà trai làm Lễ-Cưới, nhà gái 
									có lệ “thách-cưới” nhà trai. “Thách-cưới” có 
									nghĩa là nhà gái đ̣i các thứ cho cô dâu và 
									gia đ́nh nhà gái gồm các đồ trang sức và 
									quần áo cưới cho cô dâu và các đồ lễ-cưới 
									cho gia đ́nh nhà gái như tiền-bạc, trà rượu, 
									trầu cau, bánh-trái, thịt heo thịt ḅ, và 
									gạo nếp gạo tẻ, v.v. để làm tiệc thiết-đăi 
									bà con và bạn-hữu. Việc thách-cưới này có 
									khi làm cho nhà trai thật đau buồn; nhiều 
									khi, nhà trai phải yêu-cầu nhà gái để giảm 
									bớt việc thách-cưới đi v́ không có đủ tiền 
									bạc để rước dâu. Nếu nhà gái không đồng-ư 
									th́ nhà trai phải đi vay mượn tiền-bạc để lo 
									đám cưới. Việc thách-cưới đă làm cho nhiều 
									người dân buồn-phiền nên họ đă làm các câu 
									ca-dao hài-hước như sau: “Em là con gái nhà 
									giầu, / Mẹ cha thách-cưới ra màu xinh sao. 
									Cưới em trăm tấm gấm đào, / Một trăm ḥn 
									ngọc hai mươi tám ông sao trên trời.” “ Con 
									gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ 
									cha mua về.” 
									Ngày nay, việc thách-cưới 
									không là vấn-đề quan-trọng v́ nhà trai và 
									nhà gái thường cộng-tác tích-cực với nhau để 
									làm Lễ-Cưới cho cô dâu chú rể thật chu-đáo.
									
									
									b. Chọn Ngày Làm Đám Cưới
									
									Sau khi nhà trai và nhà 
									gái đă thỏa-thuận mọi việc, hai bên phải 
									ấn-định ngày làm đám cưới bằng cách chọn 
									ngày tốt có ghi rơ trong âm-lịch. Trong các 
									tấm lịch ta (âm- lịch), ở mỗi tờ lịch, các 
									chi-tiết sau đây đều được ghi rơ: ngày này 
									là ngày nào trong năm, các tuổi nào kỵ với 
									ngày này, ngày này nên làm những việc ǵ và 
									nên kiêng-cữ (không nên làm) những việc ǵ, 
									giờ tốt là giờ nào, và giờ xấu là giờ nào, 
									v.v. Tuy trong lịch có ngày được ghi là nên 
									làm đám cưới (nên cưới gả) nhưng đồng-thời 
									cũng có ghi về việc kỵ (không hợp) tuổi cho 
									một số tuổi. Nếu cô dâu chú rể có tuổi kỵ 
									trong ngày đó th́ không nên cử-hành lễ cưới 
									trong ngày đó dù là ngày đó được ghi là nên 
									“cưới gả.” Tóm- lại là ngày làm Lễ-Cưới phải 
									không xung không kỵ với các tuổi của chú rể 
									và cô dâu. Trước năm 1954, ở Miền Bắc 
									Việt-Nam, mọi người chỉ làm đám cưới vào các 
									tháng mười, tháng một (tháng1, tháng chạp 
									(thàng 12), và tháng giêng (tháng  v́ các 
									tháng này có thời-tiết rất tốt và thuận-tiện 
									cho đám cưới. Hầu hết các nơi ở Miền Bắc 
									không tổ-chưc đám cưới vào tháng bảy ta 
									(tháng ngâu) v́ tháng này có mưa dầm suốt 
									tháng (mưa ngâu) và hay có gió băo. Ngoài 
									ra, mọi người phải kiêng-cữ tổ-chức đám cưới 
									trong tháng bảy ta v́ theo sự-tích, vợ chồng 
									Ngưu-Lang Chức-Nữ bị trời phạt không cho 
									sống gần nhau, vợ chồng chỉ được phép gặp 
									nhau mỗi năm một lần vào ngày mưa ngâu mùng 
									7 tháng 7 ta mà thôi. Mỗi năm tháng bảy trời 
									đổ mưa-ngâu, / Yêu nhau xin hăy nhớ nhau một 
									vài, / Lất-phất mưa-ngâu ướt đẫm bờ vai, / 
									Tơ-duyên chẳng trọn thương hoài nhớ lâu. 
									
									c. Thiệp Báo-Hỷ và Thiệp 
									Mời
									
									Hiện nay, sau khi ấn-định 
									ngày làm đám cưới, nhà trai và nhà gái c̣n 
									cùng nhau làm những tấm thiệp báo-hỷ và 
									thiệp mời để gửi cho thân-nhân, bằng-hữu, và 
									đăng báo. Muốn có tấm thiệp báo-hỷ và thiệp 
									mời đúng cách, chúng ta phải nhờ chuyên-viên 
									làm cho. Thông-thường th́ tấm thiệp báo-hỷ 
									và thiệp mời có nội-dụng viết bằng song-ngữ, 
									tiếng Việt và tiếng Anh. Trong phần 
									“Cước-Chú số 1” ở phía dưới bài này là 
									tài-liệu hướng-dẫn về nội-dung và 
									h́nh-thức của tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời 
									được viết bằng tiếng Việt.
									
									d. Chuẩn-Bị Lễ Rước Dâu 
									và Đưa Dâu
									
									Sau khi đă ấn-định ngày 
									làm đám cưới và đă gửi thiệp báo-hỷ và thiệp 
									mời, nhà trai phải chuẩn-bị Lễ-Cưới, 
									tiệc-cưới, tiệc-trà, máy chụp ảnh, máy quay 
									phim, mua nhẫn cưới cho cả chú rể và cô dâu, 
									và chuẩn-bị lễ rước dâu. Nhà gái cũng phải 
									chuẩn-bị việc đón-tiếp nhà trai đến rước 
									dâu, chuẩn-bị máy chụp ảnh và máy quay phim, 
									chuẩn bị lễ gia-tiên, lễ Tế Tơ-Hồng, tiệc 
									trà, và lễ đưa dâu. 
									Hiện nay, tiệc cưới 
									thường do nhà trai và nhà gái cộng-tác 
									tổ-chức tại nhà hàng sau khi đă làm lễ cưới 
									để thiết-đăi bà con và bằng-hữu. Nếu nhà 
									trai và nhà gái theo Đạo Phật hay Đạo 
									Thiên-Chúa, sau khi rước dâu về nhà chồng, 
									hai gia-đ́nh c̣n phải làm hẹn với Nhà Thờ 
									(Catholic Church) hay nhà Chùa (Buddhist 
									Temple) để nhờ các cha hay các thầy chùa làm 
									lễ-cưới ngay tại nhà thờ hay tại chùa để 
									chính-thức có giấy giá-thú. 
									
									đ. Rước Dâu
									
									Nếu nhà trai ở gần nhà 
									gái trong cùng làng xóm th́ khi các 
									thân-nhân của nhà trai đem các lễ-vật đi đón 
									dâu, mọi người đi bộ thành đoàn người 
									tề-chỉnh; nếu ở xa th́ dùng xe hơi hay 
									thuyền (ở vùng quê) để chở lễ-vật và 
									thân-nhân đến nhà gái. Nếu dùng xe di đón 
									dâu, xe đón cô dâu phải được kết hoa ở phía 
									ngoài xe cho đẹp v́ “xe hoa” tượng-trưng cho 
									xe đám cưới. Người Việt ta thường tin là nếu 
									đi ra ngơ mà gặp đàn bà con gái th́ thật là 
									xui-xẻo. Chính v́ thế mà khi gia-đ́nh nhà 
									trai bắt đầu mang lễ-cưới đi đón dâu, gia 
									đ́nh nhà trai phải nhờ người đàn ông vui-vẻ 
									và dễ tính ra đón ngơ để khi mọi người vừa 
									đi ra đón dâu th́ được gặp đàn ông con trai 
									ngay trước ngơ cho may-mắn. 
									Nếu đi bằng xe hơi để đón 
									dâu th́ khi đến gần nhà gái, cách khoảng độ 
									200 thước Tây, mọi người phải xuống xe để 
									xếp thành đoàn người đi cho chỉnh-tề để dẫn 
									lễ-cưới đến nhà gái. Người đi đầu đám rước 
									dâu phải là một ông già cầm hương hoa. Để có 
									người chính-danh dẫn đầu đám rước dâu này, 
									nhà trai phải nhờ một ông già hiền-lành, 
									phúc-hậu, có địa-vị, có vợ chồng song-toàn, 
									có lắm con nhiều cháu, và không có tang để 
									dẫn đầu đoàn người đến nhà gái rước dâu về 
									nhà trai. Sự lựa chọn này có ư mong cho cô 
									dâu chú rể khi lấy nhau sẽ được bách-niên 
									giai-lăo (vợ chồng cùng sống với nhau 
									đến già), có lắm con nhiều cháu, và 
									công-thành danh-toại. Ông già này mặc áo dài 
									khăn đống hay áo thụng xanh, che lọng, và 
									cầm một bó hoa cùng một bó hương thắp cháy 
									hay bưng một lư-hương nhỏ có đốt trầm. Đi 
									liền sau ông già này là ba của chú rễ và 
									những người mang lễ-vật dẫn cưới. Tiếp theo 
									đó là chú rể, hai cậu phù-rể, và chú bác cô 
									d́ cậu mợ của chú rể, v.v. 
									Chú rể mặc quần áo và đội 
									khăn hay đội mũ rất lịch-sự. Quần áo cưới 
									của chú rể mặc vào ngày cưới không giống 
									quần áo mặc thường ngày. Ở Việt-Nam chú rể 
									thường mặc quần trắng, mặc áo the hay áo 
									đoạn kép, đội khăn đống, đội khăn lượt, hay 
									nón chóp quai tua; chân đi đôi giày Gia-Định 
									bóng ngời. Hiện nay ở hải ngoại, chú rể 
									thường mặc quần áo theo kiểu Tây-Phương hay 
									mặc áo dài đội khăn đống theo phong-tục 
									Việt. Y-phục của hai cậu phù-rể cũng 
									tương-tự như y-phục của chú rể.
									Theo phong-tục Việt, 
									người mẹ của chú rể không bao giờ đi đón dâu 
									tại nhà gái, người mẹ chỉ ở nhà chờ khi rước 
									dâu về tới nhà th́ bà mẹ chú rể mới ra đón 
									con dâu vào nhà. Hiện này ở hải-ngoại, có 
									một số gia-đ́nh khi đi rước dâu và đưa dâu 
									về nhà chồng th́ cả bố mẹ chú rể đều đi cho 
									vui vẻ và trang-trọng.
									Khi đám rước dâu đến 
									trước cửa nhà gái, có khi cả nhà trai nhà 
									gái đều đốt pháo ăn- mừng và bắt đầu quay 
									phim và chụp h́nh trong suốt Lễ Vu-Quy. Khi 
									vào trong nhà gái, xướng-ngôn-viên của nhà 
									trai và nhà gái giới-thiệu các thành-viên 
									của mỗi gia-đ́nh kể cả chú rể và cô dâu 
									tương lai. Sau khi trao lễ-vật rước dâu, 
									người chủ-hôn, bố chú rể, đứng ra ngỏ lời là 
									đă chọn được ngày lành tháng tốt để xin đón 
									dâu. Sau đó, gia-trưởng nhà gái, bố cô dâu, 
									đứng lên đáp lời chào mừng, ưng-thuận, và 
									cám-ơn. Tiếp theo đó, gia-trưởng nhà gái làm 
									lễ cáo gia-tiên và mời gia-trưởng nhà trai 
									cùng chú rể tương-lai và con gái ông ta, cô 
									dâu tương-lai, đến lễ gia-tiên nhà gái. Sau 
									khi lễ gia-tiên nhà gái, có đôi-khi nhà gái 
									yêu-cầu chú rể và cô dâu Lễ Tơ-Hồng ngay tai 
									nhà gái. Thường-thường th́ việc Lễ Tơ-Hồng 
									chỉ được tổ-chức tại nhà trai mà thôi. Sau 
									khi lễ gia-tiên nhà gái, chú rể và cô dâu 
									lại phải đến chào mừng ông bà và bố mẹ vợ 
									cùng các thân-nhân của nhà gái. Khi chú rể 
									đến chào mừng ông bà, bố mẹ vợ, và chú bác 
									cô d́ cậu mợ nhà gái, các vị này thường tặng 
									chú rể một món tiền hoạc vàng bạc hay các 
									món quà. 
									Sau khi chú rể và cô dâu 
									đă lễ gia-tiên và chào mừng mọi thân-nhân 
									của nhà gái, nhà gái mời mọi người của nhà 
									trai và nhà gái đến dự bửa tiệc trà. Sau bữa 
									tiệc-trà này và đến giờ hoàng đạo (giờ tốt), 
									nhà trai xin rước dâu. Lúc này cô dâu đă mặc 
									quần áo và trang-điểm thật chỉnh-tề. Cô dâu 
									thường mặc quần lĩnh hoa tranh, mặc áo dài, 
									và đội khăn vành hay nón thúng quay thao và 
									đi dép nhung cong. Ngày nay ở hải-ngoại, cô 
									dâu có thể mặc quần áo theo lối Tây-phương 
									cũng được. Đồng thời cô dâu cũng đă xếp 
									những đồ của ḿnh trong những cái 
									“va-li”(suitcase) để mang ra xe về nhà 
									chồng. Những đồ của cô dâu gồm có áo quần, 
									chăn gối, nữ-trang, sách-vở, và các dụng cụ 
									cá nhân, v.v. Theo phong tục Việt, ở 
									thôn-quê, họ nhà gái cử một số người đi tiễn 
									cô dâu về nhà chồng trong khi cha mẹ cô dâu 
									không bao giờ đưa con về nhà chồng. Tuy 
									nhiên, ở các tỉnh-thành trong nước trước 
									đây, nhất là ngày nay ở hải-ngoại, cha mẹ cô 
									dâu thường đi theo con gái về nhà chồng để 
									cho vui vẻ và trang-trọng. Trong số những 
									người tiễn cô dâu về nhà chồng có hai cô 
									phù-dâu. Y-phục của các cô phù-dâu cũng 
									na-ná như y-phục của cô dâu. Theo tục-lệ 
									Việt, những cô phù-dâu và những cậu phù-rể 
									phải là những người độc-thân, tức là chưa 
									lập gia-đ́nh. Chính v́ lư do này mà sau khi 
									phù-dâu phù-rể, các cậu phù-rể có thể 
									kết-duyên với các cô phù-dâu. Trước khi đi 
									về nhà chồng, cô dâu đến chào và lậy cha mẹ 
									đẻ. Đă có nhiều cô dâu khóc sướt-mướt khi 
									rời cha mẹ để về nhà chồng v́ thương nhớ cha 
									mẹ. 
									
									e. Lễ Vu-Quy
									
									Lễ đưa dâu cũng được gọi 
									là Lễ Vu-Quy, nghĩa là lễ đưa con gái về nhà 
									chồng. Khi đưa dâu về nhà chồng, nhà gái 
									cũng nhờ một ông già cầm hương hoa đi trước 
									cùng với ông già dẫn cưới của họ nhà trai. 
									Đoàn người đưa dâu về nhà chồng đông đảo gấp 
									đôi v́ có thêm nhiều người của họ nhà gái. 
									Trước khi khởi-hành, nhà trai và nhà gái 
									cũng đốt pháo ăn-mừng. Nếu đón dâu bằng xe 
									th́ sau khi đi bộ từ nhà gái ra xe, mọi 
									người đều lên xe, xe đi đầu là xe của các cụ 
									già cằm hương hoa, xe kế-tiếp là xe hoa dành 
									cho cô dâu chú rể. Cũng có nơi, xe hoa dành 
									riêng cho cô dâu với các cô phù-dâu, c̣n chú 
									rể ngồi một xe khác với các cậu phù-rể. Tiếp 
									theo đó là các xe của thân-nhân nhà trai và 
									nhà gái. Ở Việt-Nam trước đây có trường hợp 
									là đôi khi nhà trai ở cùng một đường phố với 
									nhà gái, chỉ cách nhau vài trăm thước, nhà 
									trai vẫn dùng xe hơi để rước dâu để đi 
									ṿng-vo qua những đường phố khác trước khi 
									rước dâu về nhà. Đây là cách để phô-trương 
									cho mọi người biết. Trong khi rước dâu ngoài 
									phố và khi làm lễ-cưới ở nhà trai, việc quay 
									phim và chụp h́nh đều tiến-hành để có 
									h́nh-ảnh làm kỷ-niệm suốt đời cho cô dâu chú 
									rể.
									Khi về đến ngơ nhà trai, 
									nhà trai thường đốt pháo để tỏ vẻ vui-mừng 
									đón cô dâu v́ tiếng pháo nổ là tượng-trưng 
									cho sự vui-mừng. Tiếp đó là bà mẹ chồng ra 
									đón tiếp con dâu và thân-nhân nhà gái. Có 
									nhiều nơi, khi cô dâu về nhà chồng, bà mẹ 
									chồng không ra đón con dâu mà trước đó đă 
									xách b́nh vôi đi lánh mặt một lúc rồi mới về 
									để chào mừng và tiếp khách. V́ b́nh vôi 
									tượng-trưng cho sự coi-sóc gia-đ́nh, nên bà 
									mẹ mang b́nh vôi về để giao trách-nhiệm cho 
									cô dâu hoàn-thành nhiệm-vụ: “Lấy chồng gánh 
									vác giang-sơn nhà chồng.” 
									
									g. Lễ Gia-Tiên tại Nhà 
									Chồng
									
									Sau khi được đón tiếp về 
									tới nhà chồng, cô dâu theo chú rể đến chào 
									ông bà và cha mẹ chồng rồi vào lễ gia-tiên. 
									Sau khi lễ gia-tiên xong, chủ-hôn nhà trai 
									và nhà gái đeo nhẫn cưới cho cô dâu chú rể. 
									Có nhiều nơi, việc đeo nhẫn cưới cho cô dâu 
									chú rể được thực-hiện trong khi Lễ Tơ-Hồng, 
									và c̣n được đeo nhẫn cưới ở nhà thờ và ở nhà 
									chùa nữa. Sau khi chào ông bà cha me chồng, 
									lễ gia tiên nhà trai, và đeo nhẫn cưới, cô 
									dâu và chú rể lại đến Lễ Tơ Hồng. 
									
									h. Lễ Tơ-Hồng
									
									Theo truyền-thống người 
									Việt ta, Nguyệt-Lăo là vị thần-chủ của 
									hôn-sự nên các đám cưới đều có tục-lệ lễ 
									Tơ-Hồng để tỏ ḷng biết ơn Nguyệt-Lăo đă 
									dùng dây tơ-hồng xe cho cô dâu chú rể nên 
									duyên vợ chồng. Bàn thờ Tơ-Hồng có thể lập ở 
									trong nhà hay giữa sân. Trên bàn thờ Tơ-Hồng 
									có lư-hương, đèn, nến, hoa quả, xôi gà, ly 
									rượu, và cơi trầu. Cô dâu chú rể đứng hàng 
									ngang trên chiếu trải trước hương-án để lạy 
									4 lạy, vái 3 vái, rồi quỳ nghe người đại 
									diện nhà trai đọc văn-tế Tơ-Hồng (xem mục 
									Cước-Chú số 2 ở phía dưới bài này về Văn-Tế 
									Tơ-Hồng). Khi người ta đọc xong văn-tế, chú 
									rể cô dâu lại lễ-tạ Nguyệt-Lăo rồi cùng uống 
									chung một ly rượu và ăn một miếng trầu đă có 
									sẵn trên bàn thờ Tơ-Hồng. Uống chung ly rượu 
									này có nghĩa là hai người sẽ là một và sống 
									tới khi đầu bạc răng long. 
									Sau khi Tế Tơ-Hồng, cô 
									dâu chú rể đều đến chào mừng chú bác, cô d́, 
									cậu mợ, thím, và anh chị em của chú rể. Khi 
									đến chào mừng ông bà, cha mẹ, cô d́, bác, 
									cậu mợ, chú thím, và anh chị em nhà trai, cô 
									dâu chú rể đều được quư vị này tặng tiền hay 
									quà và ngỏ lời khuyên mừng như: “ Ăn ở 
									thuận-ḥa, trên kính dưới nhường, / Sắt cầm 
									ḥa-hợp, bách-niên giai-lăo, / Bằng rày sang 
									năm có cháu cho bà bế, / Đầu năm sinh con 
									trai, cuối năm sinh con gái, v.v.” 
									
									i. Tiệc Cưới Tại Nhà Trai
									
									Sau khi cô dâu chú rể 
									lễ-bái và chào mừng mọi người, chủ nhà trai 
									mời những người hiện-diện của nhà trai và 
									nhà gái trong đám cưới vào dự tiệc cưới tại 
									nhà trai. Sau buổi tiệc cưới ở nhà trai, các 
									thân-nhân của nhà gái ra về. 
									Sau lễ cưới ở nhà và ở 
									nhà thờ hay nhà chùa, các bằng-hữu, 
									thân-nhân, và quan-khách của hai họ đều được 
									mời đi dự tiệc cưới tại tiệm ăn, cao-lâu, 
									hay quán cơm (restaurant). Thiệp mời 
									tiệc-cưới này đă đă được gửi đến cho mọi 
									người trước khi làm đám cưới.
									
									k. Lễ Động-Pḥng hay 
									Giao-Duyên
									
									Ngay buổi tối hôm đám 
									cưới, có lễ động-pḥng hay giao-duyên cho cô 
									dâu chú rể. Theo tục-lệ, trước khi 
									động-pḥng (pḥng cưới tức là pḥng của đêm 
									tân-hôn để cô dâu chú rể nằm ngủ với nhau 
									lần đầu tiên sau đám cưới), một bà già vẫn 
									c̣n có chồng và đông con nhiều cháu đứng ra 
									phụ trách sắp-đặt giường chiếu chăn gối màn, 
									mâm rượu, cơi trầu cho cô dâu chú rể dùng. 
									Sau đó cô dâu chú rể dắt nhau vào trong 
									pḥng làm lễ hợp-cẩn, tức là cùng nhau uống 
									chung một chén rượu và cùng ăn một miếng 
									trầu trước khi ngủ với nhau trong đêm cưới. 
									Sau đó uống rượu và ăn trầu, cô dâu lạy 
									chồng hai lạy và chồng đáp lại một vái. 
									Trước khi vợ chồng ngủ với nhau trong đêm 
									tân-hôn, cô dâu thường kiếm cách ngồi trên 
									đầu giường và vắt quần áo của ḿnh lên trên 
									quần áo của chồng. Việc làm này cô dâu có ư 
									là làm cho chồng chiều-chuộng và phục ṭng 
									ḿnh trong suốt cuộc đời làm vợ. 
									
									l. Lễ-Cưới Tại Nhà Thờ 
									(Catholic Church) hay Nhà Chùa (Buddhist 
									Temple)
									
									Sau khi rước dâu về nhà 
									chồng, ngay ngày hôm sau nhà trai và nhà gái 
									c̣n có hẹn đến làm lễ-cưới tại chùa hay nhà 
									thờ. Mọi nghi-lễ đều do vị ḥa-thượng của 
									chùa hay đức cha của nhà thờ định đoạt. 
									Lễ-cưới ở nhà chùa hay nhà thờ cũng có 
									nghi-lễ đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô dâu. 
									Nếu chú rể và cô đâu đă đeo nhẫn cưới ở nhà 
									th́ trước khi đến nhà thờ hay nhà chùa, phải 
									tháo nhẫn cưới đó ra trước khi lên gặp các 
									cha hay các thầy để đeo nhẫn cưới cho. Ở 
									hải-ngoại này, nếu lễ-cưới được cử hành ở 
									nhà chùa hay nhà thờ th́ nhà chùa hay nhà 
									thờ đă thừa lệnh của chính-phủ địa-phương để 
									làm giấy giá-thú cho chú rể cô dâu ngay tại 
									nhà thờ hay nhà chùa trong khi làm lễ-cưới.
									
									
									m. Lễ Từ-Đường
									
									Tại làng xóm Việt-Nam 
									trước tháng 4 năm 1975, dân Việt đều có lập 
									đền-thờ cho mỗi họ với cái tên là “từ-đường” 
									(ancestral hall). Như thế, họ nhà trai và họ 
									nhà gái đều có từ-đường riêng của họ. Chính 
									v́ thế mà ở làng xóm tại Miến Bắc Việt-Nam 
									trước trước năm 1945, khi nhà trai đến nhà 
									gái rước dâu th́ chú rể và cô dâu đều phải 
									đến từ-đường của họ nhà gái để lễ xong rồi 
									mới trở về nhà gái để lễ gia-tiên nhà gái. 
									Khi cô dâu về tới nhà trai th́ chú rể và cô 
									dâu cũng lại phải ra từ-đường của nhà trai 
									để lễ trước rồi mới về làm lễ gia-tiên tại 
									nhà chú rể. 
									Ở hải-ngoại này chúng ta 
									không có từ-đường cho mỗi họ nên cô dâu chú 
									rể chỉ cần lễ gia-tiên của nhà gái và nhà 
									trai tại nhà mà thôi.
									n. Tiệc-Cưới Tại Nhà 
									Hàng Dành Cho Bằng-Hữu, Thân-Nhân, và 
									Quan-Khách của Nhà Trai Nhà Gái 
									Khi làm lễ vu-quy ở 
									nhà gái và lễ cưới ở nhà trai, chỉ những 
									thân-nhân và những bằng-hữu của hai họ đă 
									tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới ở nhà gái và 
									nhà trai mới được mời tham-dự tiệc-trà hay 
									tiệc-cưới ngay sau buổi lễ gia-tiên tại mỗi 
									gia-đ́nh nhà trai và nhà gái. C̣n đối với 
									bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách không đến 
									tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới th́ sau khi làm 
									lễ cưới ở nhà trai và nhà thờ hay nhà chùa, 
									các bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách của 
									nhà trai và nhà gái kể các cha và các thầy 
									đều được mời đến dự tiệc cưới tại nhà hàng, 
									tiệm ăn, quán cơm, hay cao-lâu (restaurant). 
									Trong tiệc-cưới ở nhà hàng, ngoài bằng-hữu 
									và quan-khách, mọi thân-nhân của hai họ cũng 
									được mời tham dự tiệc-cưới tại nhà hàng này. 
									Ngày tháng tổ-chức tiệc-cưới và địa điểm của 
									nhà hàng dùng để tổ chức tiệc-cưới này đă 
									ghi trong thiệp-mời gửi bằng hữu, bà con, và 
									các quan-khách trước khi làm lễ-cưới cả 
									tháng.
									Về việc tổ-chức tiệc-cưới 
									tại nhà hàng, nhà trai và nhà gái phải nhờ 
									thân-nhân làm ban tổ-chức để tiếp-tân và 
									điều-khiển nghi-lễ. Công-việc của ban 
									tiếp-tân là ghi danh các quan-khách, 
									bằng-hữu, và thân-nhân đến dự, nhận quà do 
									mọi người biếu cô dâu chú rể, và chụp h́nh 
									cùng quay phim khi gặp mọi người đến 
									tham-dự. Việc chụp h́nh và quay phim c̣n 
									thực hiện trong suốt buổi tiệc cưới tại nhà 
									hàng để có tài liệu làm kỷ-niệm cho cô dâu 
									chú rể. Cần phải có ban nhạc để giúp 
									thân-nhân của hai họ cùng bằng-hữu và cô dâu 
									chú rể t́nh-nguyện trong việc hát giúp vui 
									cho tiệc-cưới. 
									Trước khi bắc-đầu 
									tiệc-cưới, cha mẹ cô dâu và cha mẹ chú rể 
									phải lên sân-khấu chào mừng và giới-thiệu 
									quan-khách, bằng-hữu, cùng thân-hân hai họ 
									nhà trai và nhà gái. Sau đó, ban tổ-chức 
									phải đặc biệt giới thiệu cô dâu và chú rể.
									
									Ở hải-ngoại này, nếu các 
									gia-đ́nh người Việt dốc ḷng tranh-đấu cho 
									tự-do dân-chủ và nhân-quyền của đồng bào 
									trong nước, họ đều tổ-chức lễ chào cờ bản-xử 
									và cờ Việt Nam Tự Do trong các buổi 
									tiệc-cưới ở nhà hàng v́ đây là trường-hợp 
									tập-thể của người Việt sum-họp với nhau 
									đông-đảo tại cộng-đồng th́ phải có lễ chào 
									cờ.
									Trong khi mọi người đang 
									ăn uống tại bữa tiệc-cưới này, bố mẹ chú rể 
									cùng với bố mẹ cô dâu phải dẫn cô dâu chú rể 
									đi đến từng bàn ăn để chào mừng quan-khách, 
									bạn-bè, và thân-nhân. Trong lúc này, người 
									phụ-trách chụp h́nh và quay phim cần phải 
									thực-hiện cho chu-đáo.
									Sau khi mọi người ăn-uống 
									xong trong tiệc-cưới tại nhà hàng, có những 
									gia-đ́nh nhà trai và nhà gái tổ-chức 
									khiêu-vũ hay nhảy đầm ngay tại đây để giúp 
									cho kết-quả tiệc-cưới vui-vẻ một cách 
									hoàn-hảo.
									Khi quan-khách và 
									bằng-hữu cùng thân-nhân ra về, bố mẹ cô dâu 
									cùng với bố mẹ chú rể cần phải ra đứng ở cửa 
									để cám ơn và tiễn quan-khách, bằng-hữu, và 
									thân-nhân.
									o. Lễ Lại-Mặt
									
									Theo lệ thường của dân 
									Việt, sau khi cưới được 3 ngày, hai vợ chồng 
									phải đem xôi, chè, rượu, và trầu cau về nhà 
									bố mẹ vợ để cúng gia-tiên. Lễ này được gọi 
									là Lễ Lại-Mặt hay Tứ-Hỷ. Nếu vợ chồng đem lễ 
									về nhà bố mẹ vợ ngay hôm sau ngày cưới th́ 
									tên lễ này cũng được gọi là Lễ Lại-Mặt hay 
									Nhị-Hỷ. Sau khi cô dâu chú rể lễ gia-tiên, 
									bố mẹ vợ có lời dặn-ḍ cô con gái (cô dâu) 
									phải đối-xử trọn-vẹn bổn-phận với chồng và 
									gia-đ́nh nhà chồng v́ từ nay cô dâu sẽ là 
									người của nhà chồng. Chính v́ thế mà ca-dao 
									Việt có câu: “ Con gái là con người ta, / 
									Con dâu mới thật mẹ cha mua về.” 
									
									p. Giấy Giá-Thú 
									(marriage licence)
									Giấy giá-thú hay giấy 
									hôn-thú rất quan-trọng để vợ-chồng sống với 
									nhau một cách hợp-pháp hầu hưởng mọi 
									quyền-lợi của gia-đ́nh và trợ-cấp của 
									chính-phủ, nhất là ở nơi hải-ngoại này. 
									Ở hải-ngoại này, khi đă 
									làm lễ-cưới tại chùa hay nhà thờ, giấy 
									giá-thú của cô dâu chú rể đều được nhà thờ 
									hay chùa cấp cho v́ nhà thờ hay nhà chùa đều 
									được chính-phủ địa-phương chấp-thuận cho làm 
									việc này. Nếu không làm lễ-cưới tại chùa và 
									nhà thờ th́ gia đ́nh nhà trai và nhà gái 
									phải tới văn-pḥng “City Clerk’s Office” của 
									“City Hall” (Ṭa Đô-Chánh) hay văn-pḥng 
									luật-pháp ở địa-phường để làm giấy giá-thú 
									(marriage licence). C̣n ở Việt-Nam trước 
									ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi làm 
									lễ-cưới, chủ nhà trai và nhà gái phải đến 
									văn-pḥng hộ-tịch tại địa-phương để làm giấy 
									giá-thú cho con, nếu không th́ việc hôn-nhân 
									có thể bị tiêu-hủy. 
									
									 
									q.Tuần Trăng-Mật 
									(Honeymoon)
									
									Sau khi cưới, vợ chồng 
									thường nghỉ một tuần hay một tháng để đi 
									chơi chung với nhau. Đi chơi chung với nhau 
									một tuần gọi là hưởng tuần trăng-mật, đi 
									chơi chung một tháng với nhau gọi là hưởng 
									tháng trăng mật. Suốt một tháng trời sau 
									ngày cưới là tháng ngọt-ngào tuyệt-vời (the 
									first month of marriage is the sweetest). Ở 
									Bắc-Mỹ này, trong 30 ngày của tháng đầu-tiên 
									sau ngày cưới, vợ chồng đều uống ly thuốc bổ 
									có mật-ong để hưởng thú-vui hợp-cẩn (a newly 
									married couple drink a potion containing 
									honey on each of the first 30 days of the 
									marriage to enjoy the pleasure of wedding 
									feast). Tuần trăng-mật hay tháng trăng-mật 
									này rất quan-trọng cho hạnh-phúc của cuộc 
									đời đội vợ chồng từ sau ngày cưới cho đến 
									khi đầu bạc răng long. 
									
									r. Cưới Chạy Tang
									
									Trước đây, tiền-nhân ta 
									có luật-pháp cấm nhà trai nhà gái không được 
									làm lễ-cưới gả trong khi gia-đ́nh để tang 
									thân-nhân kể từ tiểu-tang cơ-niên (để tang 1 
									năm) đến đại-tang (để tang 3 năm). Chính v́ 
									thế mà sau Lễ Ăn-Hỏi, nếu nhà trai hay nhà 
									gái có ông, bà, cha, me, hoặc chú bác bị 
									bệnh nặng có thể chết th́ gia-đ́nh phải lo 
									làm lễ-cưới cho con trước khi nhà có người 
									chết. Khi gặp trường-hợp bất-đắc-dĩ, 
									gia-đ́nh phải làm lễ-cưới ngay sau khi có 
									ông, bà, cha, hay mẹ chết bất th́nh-ĺnh. 
									Việc làm lễ-cưới vội-vă trước khi làm đám 
									tang có tên là cưới chạy tang. Đám 
									cưới chạy tang rất giản-dị và nhanh chóng 
									đối với cả hai gia-đ́nh nhà trai và nhà gái 
									v́ mọi người c̣n phải dành th́ giờ để lo đám 
									tang cho thân-nhân.
									London, ngày 21 thang 6 năm 
									2004 
									
									
									------------------------------------------------------------
									Cước-Chú: 
									1. Thiếp Báo-Hỷ và 
									Thiệp Mời 
									(Thiệp làm bằng giấy màu 
									vàng th́ viết bằng chữ màu đỏ hay xanh; nếu 
									thiệp làm bằng giấy màu trắng th́ viết bằng 
									chữ màu vàng, đỏ, hay xanh; )
									Thiệp Báo-Hỷ 
									
									Ngày . . . . . . . . . 
									 
									(Chỗ viết tên và địa chỉ 
									(Chỗ vẽ dấu-hiệu về tên (Chỗ viết tên và địa 
									chỉ 
									của bố mẹ chàng rể) của 
									cô dâu chú rể) của bố mẹ cô dâu)
									Kính thưa quư-vị, 
									Chúng tôi trân-trọng báo 
									tin Lễ Thành-Hôn và Vu-Quy của con chúng 
									tôi:
									. . . . . . . . . . . . . 
									. (viết họ và tên chú rể) . . . . . . . . . 
									. . . . .(viết họ và tên cô dâu)
									Trưởng-nam (hayThứ-nam) 
									Trưởng-nữ ( hay Thứ-nữ)
									 
									Hôn-lễ sẽ được cử-hành 
									vào lúc . . . (giờ sáng/chiều) . . . .(ngày 
									trong tuần-lễ)
									Ngày . . . tháng. . . . . 
									năm . . . . . . . . (ngày tháng năm 
									tây-lịch)
									Nhằm ngày. . .tháng. . . 
									năm . . . . . . . . (ngày tháng năm âm-lịch)
									Tại. . . (địa-chỉ nơi 
									tổ-chức hôn-lễ)
									 
									
									Trân-trọng,
									( Kư tên và biên tên ba 
									hay má của chú rể / ba hay hay cô dâu đứng 
									ra báo tin) 
									
									------------------------------------
									Kèm theo tâm thiệp báo-hỷ 
									này, chúng ta c̣n cần phải có tấm thiệp mời 
									quan-khách đến dự tiệc-cưới. Tấm thiệp mời 
									này cũng phải viết bằng song-ngữ để tiện 
									việc mời cả người Việt lẫn người bản-xứ. 
									Tiếp theo đây là bản thiệp mời bằng tiếng 
									Việt với nội-dung như sau: 
									
									Thiệp Mời
									
									Ngày…. . . . . . . . . . . 
									. . .
									Kính thưa . . . . . . . . . 
									. . .(biên tên người được mời) 
									Trân trọng kính mời Ông Bà 
									(Ông/ Bà/ hay Anh Chị) đến dự buổi tiệc-cưới 
									chung vui cùng với gia-đ́nh chúng tôi tại:
									
									. . . . . . . . . . . . . . 
									. . . . . . . (biên địa-chỉ nơi tổ-chức 
									tiệc-cưới)
									Vào lúc . . . . . . . . . . 
									. (biên giờ, ngày trong tuần, và ngày tháng 
									năm tây lịch)
									 
									Sự hiện-diện của Ông Bà sẽ 
									là niềm vinh-dự cho gia-đ́nh chúng tôi. Kính 
									xin Ông Bà làm ơn thông-báo cho chúng tôi 
									biết (bằng số điện thoại dưới đây) là có đến 
									tham-dự tiệc-cưới được hay không. 
									Xin thông báo cho chúng tôi 
									biết trước ngày . . . . . . . . . . . . . . 
									.(đề ngày trước một tuần của ngày có tiệc 
									cưới). 
									. . . . . . . . . . (tên 
									người của gia đ́nh nhà trai), . . . . . . . 
									. . . . . .(số điện thoại)
									. . . . . . . . . . (tên 
									người của gia đ́nh nhà gái), . . . . . . . . 
									. . . . . .(số điện thoại)
									 
									Trân-trọng,
									(kư tên và biên tên của 
									người đứng mời)
									 
									Hồi xưa ở Việt-Nam, các 
									gia-đ́nh đều dùng bài Văn-Tế Tơ-Hồng sau đây 
									của Học-Giả Triêu Dương Nguyễn Các-Phụng:
									
									 
									2. Văn-Tế Tơ-Hồng 
									
									 
									Duy Nguyệt-Lăo xe duyên 
									ngày... tháng . . . năm . . . thành-phố . . 
									. tỉnh . . . nước. . . V́ việc kết-hôn của . 
									. . . (tên chú rể) cùng . . . (tên cô dâu), 
									nay hôn-sự đă thành, kính dâng lễ bạc ḷng 
									thành lên Đức Tơ-Hồng Nguyệt-Lăo Thiên-Tiên. 
									Ngài rất công, rất thẳng,/ Không vị, không 
									thiên,/ Đem kính ngọc xét soi thế-sự, / Lấy 
									chỉ hồng xe kết nhân duyên, / Xui nhạn cá 
									mối-manh đưa lại, / Nên uyên-ương sum-họp 
									phỉ-nguyền, / Bởi nợ trước duyên sau cùng 
									sinh một hội, / Vậy người Nam kẻ Bắc 
									kết-duyên bách niên, / Đuốc hoa xán-lạn hai 
									nhà nhờ ơn Nguyệt-Lăo,/ Thước ngọc hợp-thành 
									một cặp bởi đức Hoàng-Thiên, / Gối phượng 
									chăn loan tưng-bừng đôi lứa, / Chèo lan lái 
									quế êm-ấm một thuyền, / Mong sớm ứng điềm 
									lành, mộng hổ, mộng hùng, mộng sà, mộng 
									lộc,/ Được sau nên họ lớn, sinh đào, sinh 
									lư, sinh huệ, sinh liên, / Nguyện cùng trăm 
									năm giai-lăo, / Ước rằng hai họ măn-viên, / 
									Trông ơn đại-đức, / Tấc dạ vi kiền. Cẩn cáo