| 
										LỄ 
										CÚNG BẾN NƯỚC - GIA LAI | 
									 
									
										
										
											
											 Lễ 
											cúng bến nước: Đây là một trong 
											những h́nh thức sinh hoạt văn hoá 
											cộng đồng mang nhiều ư nghĩa tích 
											cực trong đời sống tâm linh của đồng 
											bào dân tộc Êđê ở Tây Nguyên.  
											Nếu Lễ cầu mưa diễn ra hàng năm vào 
											đầu mùa trồng tỉa (khoảng tháng 4 
											dương 
											lịch), th́ Lễ cúng bến nước 
											được tổ chức hằng năm sau mùa thu 
											hoạch để cầu cho mưa thuận gió hoà, 
											mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no 
											hạnh phúc.  
											Theo đúng phong tục, buổi lễ cúng 
											bến nước thường diễn ra như một ngày 
											hội của buôn làng. Sau một hồi 
											chiêng ngân dài sâu thẳm và trang 
											nghiêm, lễ cúng bến nước được bắt 
											đầu bằng lễ cúng ông bà tổ tiên để 
											thông báo cho ông bà về sự có mặt 
											đông đủ của con cháu trong làng, 
											tiếp đó thầy cúng mới làm lễ cúng 
											Yang cầu mưa. Kết thúc buổi lễ những 
											cô gái trong trang phục truyền thống, 
											lưng đeo gùi, cùng mọi người theo 
											bước chân thầy cúng về bến nước đầu 
											làng. Những bầu nước mát ngọt được 
											những người con của buôn làng gùi về 
											trong niềm vui hân hoan. Mọi người 
											lại quây quần bên nhau uống rượu cần 
											trong âm hưởng rộn ràng của cồng 
											chiêng Tây Nguyên. (internet)   
										 | 
									 
									
										
										 
										 | 
									 
									
										| 
										TƯỢNG NHÀ MỒ - GIA LAI | 
									 
									
										
										
											
											 Tượng 
											nhà mồ: Lên Tây Nguyên đến các làng 
											của người Bahnar, Jrai đến những khu 
											nghĩa địa chúng ta như lạc vào cả 
											rừng tượng gỗ, có những ngôi mộ mới 
											th́ tượng vẫn c̣n nguyên vẹn nhưng 
											có những ngôi mộ cũ th́ tượng nhà mồ 
											đă bị bỏ ngổn ngang và biến thành 
											rừng. Đó là h́nh ảnh nhà mồ của 
											người dân bản địa Gia Lai.  
											Nhà mồ được dựng lên cho người chết, 
											để hàng ngày người thân của người 
											chết đem cơm nước đến và quét dọn 
											như khi c̣n sống. Tượng nhà mồ chỉ 
											xuất hiện khi họ tổ chức lễ bỏ mả 
											cho người chết, 
											tại lễ bỏ mả người ta khắc 
											tượng và trang trí xung quanh nhà mồ. 
											Tượng nhà mồ phản ánh cuộc sống hiện 
											thực của người dân bản địa.   
										
											Theo lời kể của 
											tộc người Bahnar th́ tượng nhà mồ là 
											để đưa tiễn người sang thế giới xa 
											xăm. Bởi vậy, khi sống cuộc đời ra 
											sao th́ khi chết đi, con người chỉ 
											đi xa nhưng cũng là một cuộc sống 
											không khác ǵ thế giới bên này. Họ 
											có kiếp sống của sinh thành, giao 
											hoan, có giải trí và đương nhiên, 
											những súc vật cũng cần mang theo. 
											Đến lễ hội Bỏ mả (lễ hội Pơ thi), 
											chúng ta ngập trong rừng tượng. 
											Tượng nhà mồ hiện lên sống động 
											quanh những nhà mồ, thể hiện một nền 
											nghệ thuật cổ, rực rỡ.   
										
											Tượng nhà mồ có 
											thể xếp làm 3 lớp. Đó là thế giới 
											sinh thành con người, có bào thai 
											trong bụng mẹ, có giao hoan, giao 
											phối âm dương, có bụng mang dạ chửa. 
											Con người thuở nguyên sơ, phô bầy 
											trong dáng khỏa thân, minh chứng sức 
											mạnh truyền đời của loài người với 
											nét đẽo khô ráp nhưng được cường 
											điệu những bộ phận người cần được 
											phô trương, bởi thế đường nét mạnh 
											mẽ, gây ấn tượng rất mạnh, rất khác 
											thường. Nhóm tượng thứ hai là những 
											con vật gần gũi với người như voi, 
											chó, trâu, ḅ... và nhóm thứ ba là 
											những sinh hoạt cộng đồng như thể 
											thao, săn bắn. Nhưng khi đến nhà mồ, 
											lớp tượng cổ sơ nhất vẫn là tiêu 
											biểu cho nghệ thuật tượng nhà mồ Tây 
											Nguyên.   
										
											Nghệ nhân đẽo 
											tượng bằng chiếc ŕu cứng cáp. Chỉ 
											trên một khúc gỗ, không phác thảo và 
											ngày này sang ngày khác, những cây 
											gỗ to sù ś cứ hiện dần lên những 
											dáng dấp, h́nh người, những tư thế 
											cùng những chi tiết đa dạng của 
											người đàn ông, đàn bà, trẻ nhỏ... 
											dường như tất cả đă nằm trong đầu 
											nghệ nhân. Họ lặng lẽ từng nhát chắc 
											chắn bổ xuống để nên h́nh, nên tượng, 
											nên hồn.   
										
											Những bức tượng 
											thực đó mà cũng hư hư huyền huyền đó 
											như chính cơi "tối tăm" âm thế. Bởi 
											thế mà trong ngôn ngữ người Bahnar 
											các tượng mồ được gọi là "Mêu" với 
											người Jrai gọi là "Rup", nghĩa là 
											h́nh tượng, chứ không gọi là h́nh 
											ảnh, cũng không gọi rơ là tượng, nó 
											cụ thể quá. (internet)   
										 | 
									 
									
										
										 
										 | 
									 
									
										LỄ PƠ THI
											
												|   | 
											 
											
												
												
													 Lễ 
													Pơ Thi (Lễ bỏ mả): Hàng năm 
													khi mùa mưa vừa chấm dứt (từ 
													tháng 11 đến hết tháng 4 
													dương  
													lịch năm sau), khi 
													muà màng thu hoạch xong, cả 
													hai tộc người Bahnar và Jrai 
													ở tỉnh Gia Lai tổ chức Lễ bỏ 
													mả và họ cùng gọi là Pơ thi. 
													Lễ bỏ mả là lễ hội lớn nhất, 
													đông vui và dài ngày nhất.
													 
													Theo quan niệm của cư dân 
													bản địa, người sống đều có 
													hồn, khi người chết hồn biến 
													thành ma. Hàng ngày, người 
													thân của người chết phải đem 
													cơm nước đến nhà mồ, quét 
													dọn nhà mồ. Mục đích của lễ 
													hội chính là tiễn đưa các 
													tinh linh (ma mới) về với 
													thế giới tổ tiên, về với "ma 
													cũ". Chỉ sau khi làm Lễ bỏ 
													mả người chết mới đi về với 
													thế giới tổ tiên, chấm dứt 
													mọi ràng buộc giữa người 
													sống với người chết.   
												 | 
											 
										 
										 | 
									 
								 
								
									
										Nguồn: saigontoserco 
										Lễ pơ thi - Bản sắc 
										hay hủ tục? 
										
											Pơ thi 
											là tiếng Jrai để chỉ một lễ mà người 
											Kinh ta hay gọi là lễ bỏ mả. Đây là 
											một lễ lớn trong mấy lễ trọng của 
											người Tây Nguyên như mừng nhà rông 
											mới, cơm mới và pơ thi. 
										
											  
										
											Người 
											Tây Nguyên quan niệm thế giới vạn 
											vật hữu linh, nhất cử nhất động hoạt 
											động của họ đều có thần linh tham 
											gia chứng giám và điều khiển. Khi có 
											một người Tây Nguyên chết đi th́ đấy 
											chưa phải là chết mà họ mới tạm rời 
											cơi sống để chuẩn bị sang thế giới 
											Atâu. Người chết được mang đi chôn (có 
											thể địa táng hoặc thiên táng tùy dân 
											tộc) nhưng có mấy điểm chung: thứ 
											nhất là chôn chung, nhiều người 
											trong gia đ́nh được đặt chung một 
											quan tài (việc này nay đă bỏ), thứ 
											hai là chia của cải cho người chết. 
										
											  
										
											Người 
											sống có ǵ người chết được chia như 
											thế, kể cả tivi, xe máy, nhiều nhất 
											là chiêng, ghè rượu... nhưng để phân 
											biệt th́ những đồ vật chia này được 
											làm hỏng đi, ghè th́ đục thủng, 
											chiêng th́ đánh méo..., thứ ba là 
											hàng ngày người sống vẫn ra mồ tiếp 
											tế thức ăn cho người chết, họ bón 
											cơm cho người chết thông qua một cái 
											lỗ chừa lại trên quan tài, họ ngồi 
											nói chuyện với người chết hàng tiếng 
											đồng hồ, kể lể sự việc diễn ra trong 
											ngày, trong làng có việc ǵ, ai dựng 
											vợ gả chồng, ai say rượu đánh nhau, 
											ai sinh con đẻ cái... như là người 
											nằm dưới kia vẫn đang đồng hành cùng 
											họ. 
										
										Cho đến một ngày, người sống đă chuẩn bị 
										đủ ḅ, heo, gà, dê... họ quyết định làm 
										lễ pơ thi, lần cuối cùng, vĩnh viễn chia 
										tay, vĩnh viễn ai đi đằng nấy, không 
										vướng bận chi nhau nữa. 
										
										
										Tượng mồ 
										
										Muốn làm lễ pơ thi, trước hết phải có 
										tượng mồ. Mà không phải ai trong làng 
										cũng có thể làm được tượng. Đồn rằng 
										Yang nhập vào ai người đó mới làm được 
										và cũng không phải lúc nào cũng có thể 
										làm. Các giáo sư nổi tiếng như Từ Chi, 
										Ngô Văn Doanh đă bỏ ra rất nhiều công 
										sức, thời gian nghiên cứu tượng mồ mà 
										vẫn chưa hết kinh ngạc. Nhiều họa sĩ 
										điêu khắc học hành bài bản cũng ngả mũ 
										chào thua trước những pho tượng bí ẩn 
										kia, bởi nó được làm ra từ bàn tay của 
										những người nông dân mù chữ, cả đời chưa 
										ra khỏi làng. Công cụ lại chỉ có một cái 
										ŕu và một dao rựa. Thế mà tượng mồ lung 
										linh sống động, mà mang trong nó cả nhân 
										gian dằng dặc, mà toàn bộ thần thái đời 
										sống, toàn bộ t́nh cảm của người sống 
										hiển hiện trong đó. 
										
										Ŕu và rựa, chỉ duy nhất hai thứ ấy mà 
										từ cây gỗ khổng lồ, các pho tượng ra đời. 
										Nhiều nhất là h́nh người ngồi ôm mặt 
										trong dáng của bào thai, h́nh trai gái 
										giao hoan, h́nh bộ phận sinh dục nam nữ, 
										h́nh chim, khỉ... Ngày này sang tháng 
										khác, bao giờ tượng mồ đủ th́ lễ pơ thi 
										mới bắt đầu. 
										
										Ngôi nhà mồ cũng là một đặc sắc kiến 
										trúc Tây Nguyên. Với rất nhiều hoa văn 
										tinh xảo từ trên nóc xuống mái đến hàng 
										rào xung quanh, nó vừa ấm cúng vừa gợi 
										lên sự xa ngái. Các tượng mồ được chôn 
										xung quanh ngôi nhà mồ. Nên nhớ, điều 
										trác tuyệt là ở chỗ tất cả những ǵ đẹp 
										đẽ tinh xảo đến rợn ngợp kia, sau lễ bỏ 
										mả là sẽ bỏ luôn, mặc nắng mưa, mặc mối 
										mọt, người sống không bao giờ quay lại 
										nữa, tác giả của nó, nghệ nhân siêu đẳng 
										kia cũng không một chút luyến tiếc. Tài 
										hoa của họ, người chết và Yang đă chứng 
										kiến hôm bỏ mả rồi. 
										
										
											
												
													| 
													
													 
														 Các 
														nghệ nhân ở làng M’rông 
														Yô đang tập cho lễ pơ 
														thi. 
													 | 
												 
											 
										 
										
										Bỏ mả 
										
										
										
											Thường người ta làm vào ban đêm, kéo 
											dài khoảng một tuần. Một đoàn vài 
											chục người, mỗi người một ngọn đuốc 
											cháy đùng đùng, sau lưng là những 
											ống nứa ngất nghểu trông hùng vĩ như 
											trong phim lịch sử. Ấy là họ đi gùi 
											nước về để chế rượu cần. Thường th́ 
											gia chủ chỉ chuẩn bị ḅ, heo, gà, dê 
											và gạo nấu cơm. Dân trong làng và 
											làng lân cận sẽ gùi rượu nhà ḿnh 
											đến, hàng vài trăm ghè, có đám đến 
											cả ngàn. 
										
										
										
											  
										
										
										
										
											Người giết ḅ, người đập heo, người 
											cắm rượu, người nấu cơm... rất nhiều 
											nhóm quần tụ trong một khu đất không 
											lớn lắm. Nếu có khách th́ bao giờ 
											sau khi được mời ăn, họ c̣n được 
											chia phần mang về. Phần nghi lễ th́ 
											tất nhiên là có thầy cúng với các 
											thủ tục rất kỹ như lấy máu sống vẩy 
											lên cây nêu, lấy lục phủ ngũ tạng 
											cúng Yang, lấy thịt ngon cúng người 
											chết... và phần quan trọng là các 
											dàn chiêng vào cuộc. Thường th́ các 
											làng cử đến lễ bỏ mả những chàng 
											trai cô gái giỏi nhất, khỏe mạnh 
											nhất, đẹp nhất, chiêng hay và xoang 
											đẹp nhất để tham gia chia sẻ trong 
											lễ bỏ mả. 
										
										
										
										
											  
										
										
										
										
											Những đội chiêng này ban đầu chơi 
											chiêng Atâu (chiêng dành cho đám 
											ma), nhưng sau đấy, đêm về khuya, là 
											chiêng ngẫu hứng. Họ đọ chiêng, so 
											chiêng, nói chuyện bằng chiêng. Nh́n 
											hai chàng trai cao lớn, khỏe mạnh đọ 
											chiêng th́ không một cô gái nào cầm 
											ḷng được. Mỗi chàng một chiêng, họ 
											nhảy, họ múa, rất nhịp nhàng và ăn 
											ư, họ vờn nhau ngoài xa, rồi xáp 
											lại, hai chiếc chiêng úp vào nhau. 
											Họ gơ chiêng ngẫu hứng nhưng vô cùng 
											ăn ư. Các cô gái nín thở nghe và 
											nh́n. Bởi những điều các chàng trai 
											đang làm là nhằm vào họ... 
										
										
										
										
											  
										
										
										
										
											Những đuôi khố kơ tếch phất phơ, 
											những ngực nở bụng thon chắc nịch. 
											Những loang loáng áo ló vai trần, 
											những khép mở gấu váy lộ những bắp 
											chân nâu mịn màng. Những đầu mày 
											cuối mắt, những va chạm hờ hững, 
											những bùng nổ, những khát khao, 
											những rạo rực, những hông, những eo, 
											những đường cong, những khối tṛn... 
											lúc này không c̣n liên quan ǵ đến 
											tang ma nữa, nó là một lễ hội văn 
											hóa. Những bài chiêng hay nhất được 
											tấu lên, những điệu nhún (xoang) 
											uyển chuyển nhất được phô ra, những 
											ǵ hay nhất, đẹp nhất có thể đều 
											được các chàng trai, cô gái phô 
											diễn. Núi rừng rạo rực, đêm xôn xao, 
											cây cối phập phồng... 
										
										
										
										
											  
										
										
										
											Tất cả mọi người đều nhập vào như 
											một nhu cầu tự thân, không có diễn 
											viên, không có khán giả, tất cả là 
											một khối quyến rũ và si mê, đắm say 
											và nồng nhiệt. Ai say nằm lại, ai 
											buồn ngủ th́ chợp mắt, tỉnh dậy lại 
											vào ṿng. Thi thoảng một cặp nam nữ 
											lại trốn khỏi cuộc vui... Tất nhiên 
											là làng có những quy định rất khắt 
											khe để không được đi quá giới hạn. 
											Nhưng yêu nhau, thổ lộ với nhau, ḥ 
											hẹn với nhau th́ ai cấm được, và 
											sang năm, biết đâu lại có những công 
											dân ra đời từ cái đêm pơ thi huyền 
											diệu ấy. Vậy th́ nó c̣n là đêm của 
											t́nh yêu, lễ của t́nh yêu và sự sống 
											nữa. 
										
										
										
										Bản sắc hay hủ tục 
										
										
										
										Không ở đâu có một lễ hội mang tính chất 
										nhân văn đến như thế. Bỏ mả, chia tay 
										người chết bằng một lễ hội hoành tráng, 
										bằng những phẩm vật cả vật chất và tinh 
										thần vừa lộng lẫy vừa sang trọng, vừa 
										tinh tế vừa huyền diệu. Những phẩm vật 
										được dâng một cách thành kính, không vụ 
										lợi. 
										
										Lễ này trở thành một hoạt động văn hóa 
										tự thân huy động được hết khả năng sáng 
										tạo vô tận và kỳ diệu của các nghệ nhân 
										và toàn thể dân làng. Từ người tạc tượng 
										đến người đánh chiêng, chỉnh chiêng, đến 
										các cô gái xoang, đến cả những thày cúng 
										hiểu sự đời và các bà cụ vừa khóc vừa kể 
										rất hay. 
										
										Nhưng quả thực, với việc hàng mấy trăm 
										con người tụ tập ăn uống ngày này qua 
										ngày khác ở một khu đất hẹp, dưới trời 
										nắng, dưới sương lạnh, thức ăn để qua 
										nhiều ngày, nấu nướng mất vệ sinh, lấy 
										nước suối pha rượu cần... th́ dịch bệnh 
										xảy ra là điều không tránh khỏi. Rất 
										nhiều ổ dịch, đặc biệt là dịch tả đă 
										xuất hiện từ những lễ pơ thi như thế này, 
										thậm chí đă có người chết... 
										
										Pơ thi là một lễ hội văn hóa lành mạnh, 
										nó phát huy được hết sức mạnh tinh thần 
										diệu kỳ và c̣n nhiều bí ẩn của nhân dân 
										nếu chúng ta có cách ǵ đó giúp đồng bào 
										giữ vệ sinh hơn khi hành lễ. Ở đây, vai 
										tṛ của bộ đội biên pḥng là rất lớn. 
										Một mặt ḥa đồng vào với đồng bào trong 
										các dịp lễ, mặt khác, thông qua sự ḥa 
										đồng ấy, hướng dẫn và giúp bà con giữ 
										ǵn vệ sinh. Pơ thi không phải hủ tục mà 
										là một lễ hội mang đậm tính nhân văn và 
										tài hoa của người Tây Nguyên.         
										
										
										 Văn Công Hùng 
										
										
										
										LỄ 
										HỘI ĐÂM TRÂU - GIA LAI  | 
									 
									
										
										
											
											 Lễ 
											hội đâm Trâu: Đồng bào Jrai, Bahnar 
											thường tổ chức lễ hội đâm trâu trong 
											khoảng thời gian từ đầu tháng chạp 
											năm trước đến tháng 3 âm
											
											lịch năm sau. Người Bahnar tổ 
											chức trong 3 ngày, c̣n người Jrai tổ 
											chức trong một ngày rưỡi. Lễ hội đâm 
											trâu được tổ chức vào dịp mừng chiến 
											thắng , mừng thắng lợi của cộng đồng, 
											khánh thành nhà rông, lễ cầu an, lễ 
											xoá điềm xấu, điềm gở cho cả buôn 
											làng hoặc tạ ơn thần linh.  
											Hàng năm dân làng tổ chức một lần lễ 
											hội đâm trâu 
											tại nhà rông, mọi phí tổn 
											trong ngày hội do dân làng đóng góp 
											lại. Người chủ tŕ ngày hội là già 
											làng, đứng gần cột buộc trâu. Thanh 
											niên nam nữ đánh chiêng, cồng, múa 
											đứng sau lưng già làng. Những thanh 
											niên có nhiệm vụ đánh trống, chiêng, 
											cồng trong ngày hội, đầu chít khăn 
											đỏ, mặc áo (loại áo ngày lễ dành cho 
											con trai), đóng khố. Nữ thanh niên 
											mặc áo phia, váy koteh (loại áo, mặc 
											ngày hội của con gái).   
										
											Khi già làng khấn 
											xong, tiếng chiêng, cồng bắt đầu nổi 
											lên ḥa với tiếng hú của dân làng. 
											Cảnh buôn làng trở nên rộn ràng, 
											sinh động. Những ngày ở lễ hội đâm 
											trâu, là những ngày hội của nghệ 
											thuật cồng chiêng v́ nhiều nhà đem 
											bộ cồng chiêng của ḿnh tới tham dự.
										  
										
											Hết ngày thứ nhất, 
											sang ngày thứ hai, tiếng cồng chiêng 
											càng nổi lên rộn ră, những thanh 
											niên khoẻ mạnh, đầu chít khăn đỏ, 
											tay cầm khiên, gươm sáng loáng lao 
											ra, vừa múa vũ khí, vừa đi ṿng tṛn 
											để lừa dịp đâm trâu. Sau cuộc nhảy 
											múa, họ bắt đầu đâm trâu. Khi con 
											trâu đă tắt thở, thầy cúng mang 
											chiêng, nồi đồng nhỏ đến hứng huyết 
											trâu ḥa với rượu, bộ phận đao kiếm 
											tiếp tục xẻ thịt trâu, làm thịt trâu 
											xong, họ chia đều cho từng bếp trong 
											buôn làng. Một phần thịt trâu sẽ 
											được dành lại để uống rượu chung tại 
											nhà rông. (internet)  
										 | 
									 
								 
								
									
										
										 
										 | 
									 
									
										| 
										
										LỄ BỎ MẢ NGƯỜI GIARAI - GIA LAI
										 | 
									 
									
										
										
											
											 Người 
											Giarai Mthur thuộc một nhóm người 
											Giarai vừa khá lớn vừa khá đặc biệt 
											của dân tộc Giarai. Địa bàn cư trú 
											chính của người Giarai Mthur là 
											huyện Krông Pa và phía nam huyện 
											Ayun Pa (xă Ia Rbol) của tỉnh Gia 
											Lai. Nếu nh́n trên bản đồ, chúng ta 
											sẽ thấy, người Giarai Mthur sống ở 
											phía đông nam của tỉnh Gia Lai và 
											cũng thuộc phía đông nam địa bàn cư 
											trú của người Giarai. Nơi cư trú của 
											người Giarai Mthur nằm gọn trong khu 
											vực giáp ranh với hai nhóm dân tộc 
											lớn cùng thuộc ngữ hệ Malayô - 
											pôlinêdiêng; người Chăm ở phía đông.
										  
										
											Điều khá đặc biệt 
											là, cái tên Mthur (nghĩa là nghèo 
											nàn) không chỉ là cái tên để chỉ một 
											nhánh của người Giarai mà cũng là 
											cái tên chỉ một nhánh người Êđê phía 
											đông - người Êđê Mthur. C̣n người 
											Giarai Mthur ở giáp với người Chăm (như 
											ở xă Đắc Bằng, huyện Krông Pa, tỉnh 
											Gia Lai) lại tự gọi ḿnh là người 
											Chăm Hroi. Ngoài người Êđê Mthur ra, 
											người Êđê Ktul, Êđê Mă Laiô và Êđê 
											Kđrắc đều có rất nhiều nét tương 
											đồng về văn hóa với người Giarai 
											Mthur. Do đó, có thể nói, trong văn 
											hóa truyền thống của người Giarai 
											Mthur có nhiều sắc thái chung cho cả 
											người Êđê và người Chăm Hroi. Ngay 
											trong tang ma nói chung và lễ bỏ mả 
											nói riêng của người Giarai Mthur, 
											theo những kết quả điều tra nghiên 
											cứu của chúng tôi, có không ít những 
											yếu tố gần với người Êđê.  
											
												
													 - Theo quan niệm của người 
													Giarai Mthur ở Đắc Bằng và 
													Ia Rto, khi người ta chết 
													th́ hồn người chết (m'ngắt 
													dêi) biến thành ma (atầu). 
													Sau khi làm lễ bỏ mả, hồn ma 
													của người chết mới được đi 
													tới thế giới của bà Jung, 
													các hồn ma sinh sống và làm 
													việc như những người sống, 
													nghĩa là cùng ăn uống, lấy 
													vợ, lấy chồng, ốm đau và 
													chết. Sau khi chết, hồn ma 
													biến thành con nhện (vak vai). 
													Bà Jung thả con nhện lên mặt 
													đất. Khi chết, nhện biến 
													thành giọt sương (ia ngom) 
													rồi tan vào đất. Bà Jung lấy 
													đất có thấm giọt sương đó 
													làm ra người - rồi cho nhập 
													vào những người phụ nữ có 
													chửa. Khi người phụ nữ sinh 
													con th́ hồn ma lại trở về 
													với kiếp người. Người Ê Đê 
													cũng có những truyền thuyết 
													và quan niệm tương tự về 
													buôn làng tổ tiên (buôn Atao) 
													do vợ chồng thần Băng Bơ 
													Dung, Băng Bơ Đai cai quản. 
													V́ thế, để cho hồn ma của 
													người chết đến được với buôn 
													làng của tổ tiên, người 
													Giarai Mthur và các nhóm 
													người Êđê phía đông đều có 
													tục làm lễ bỏ mả cho người 
													chết. Tập tục này đă có từ 
													lâu và c̣n tồn tại cho đến 
													tận hôm nay. Ngay trong các 
													trường ca (khan) của người 
													Giarai Mthur và người Êđê, 
													có những đoạn nói về lễ bỏ 
													mả thật sinh động. Ví dụ, 
													trường ca Xing Nhă của người 
													Êđê và Giarai mô tả việc 
													Xing Nhă làm lễ bỏ mả cho 
													cha ḿnh như sau: "Măn mùa 
													lúa. Vào một buổi sáng đẹp 
													trời, sương trốn nắng. Xing 
													Nhă sai nô lệ vào rừng chặt 
													cây kơnia, chặt những cây 
													g̣n to nhất để dựng nhà mồ 
													cho cha là Giarơ Kốt ở gần 
													núi Bơlô. Tin ấy truyền đi 
													buôn phía đông. Tin ấy lan 
													sang làng phía tây. Từ người 
													Bi Kơrông sống dọc bờ sông, 
													tối người Mơnông cắm lông 
													chim trên đầu ở bên bờ suối; 
													tất cả đều nô nức mang 
													rượu,thịt, chiêng trống đến 
													mừng chàng Xing Nhă dựng nhà 
													mồ cho cha". C̣n lễ bỏ mả 
													cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp 
													được trường ca Xinh Chơ Niếp 
													mô tả: "Về phần Chiêm Tơ Mun, 
													th́ sau mấy mùa trăng lặn, 
													trăng lên, sức khỏe của mẹ 
													chàng đă phục, làn da đă trở 
													lại như xưa. Một buổi tối 
													đầy sao, nhiều gió, chàng 
													gọi Chiên Mơ Nga tới nhà bàn 
													việc làm lễ bỏ mả cho Đăm Bi 
													và Xinh Chơ Niếp. Sau đấy, 
													họ đem rượu ra uống suốt mấy 
													ngày liên tiếp bên đồi Lơ 
													Mui. Mả Xinh Chơ Niếp và Đăm 
													Bi làm chung một chỗ, xây 
													chung một hướng. Cây nêu cao 
													tận trời, khắc chạm tận gốc. 
													Bốn phía mồ đều đẽo tượng gỗ 
													lớn. Tượng ngồi, tượng đứng, 
													trông rất linh thiêng. Trai 
													gái ở buôn gần dắt ḅ, ở 
													buôn xa đem rượu tới ăn lễ. 
													Chiêng trống không ngừng, 
													nhảy múa không ngớt. Âm vang, 
													chấn động cả vách núi, lưng 
													trời". 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Mặc dầu không c̣n những 
													lễ bỏ mả lớn của các tù 
													trưởng lớn mà các trường ca 
													mô tả, nhưng người Giarai 
													hôm nay vẫn làm cho người 
													chết những ngôi nhà mồ kút (bơxát 
													kut hay nok kut). Đồ sộ uy 
													nghi và tổ chức lễ bỏ mả 
													trọng thể, đông vui. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Như các nhóm Giarai khác, 
													người Giarai Mthur vẫn giữ 
													tục chôn chung và bỏ mả 
													chung. Do đó, để tổ chức 
													được lễ bỏ mả, trước đó cả 
													tháng trời, các gia đ́nh có 
													người chết cùng dân làng đă 
													phải bắt tay vào chuẩn bị. 
													Mọi người phải lên rừng chặt 
													gỗ đem về đẽo các cột kút, 
													kơlao, chạm khắc tượng người, 
													tượng thú, phải chuẩn bị 
													rượu, thịt, gạo nước cho lễ 
													bỏ mả. Chỉ sau khi mọi thứ 
													đă làm xong, lễ bỏ mả mới có 
													thể tổ chức được. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Người Giarai Mthur 
													thường chọn những ngày trăng 
													sáng nhất (tuần thứ hai tức 
													tuần trăng tṛn của tháng) 
													để bắt đầu làm lễ bỏ mả hay 
													ăn bỏ mả (hoă lui bơxát) như 
													người Giarai thường gọi. Khi 
													vầng trăng của ngày 14 đă 
													nhô lên treo lơ lửng trên 
													đỉnh các cây cột kút và klao 
													của nhà mả (tức khoảng 10-11 
													giờ đêm) các gia đ́nh có 
													người thân phải làm lễ bỏ mả 
													cùng cả dân làng tấp nập đi 
													ra khu nhà mồ đă được dọn 
													dẹp sạch sẽ để bắt đầu lễ 
													hội bỏ mả của làng. V́ thế 
													mà người Giarai Mthur gọi 
													hôm đầu tiên của lễ bỏ mả là 
													ngày vào nhà mả (mưt bơxát).
													
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Trước khi cuộc vui của 
													lễ hội bùng lên, người chủ 
													của lễ (người đại diện cho 
													gia đ́nh có người chết được 
													chôn đầu tiên ở khu nhà mả) 
													đến bên ngôi nhà mồ mới, xụp 
													trước bàn thờ (P'nang) đă 
													bầy sẵn rượu, thịt cúng và 
													đọc bài cúng với những lời 
													mở đầu như sau: lễ bỏ mả đến 
													ngay sau lưng rồi. Từ nay, 
													người sống ăn cơm trắng, c̣n 
													ma th́ ăn cơm đỏ, ăn hoa tím, 
													hoa đỏ của các thần... Sau 
													đấy, người chủ lễ mới bày tỏ 
													tâm tư và nguyện vọng của 
													những người sống: "xin ma 
													đừng gọi, đừng lại gần, đừng 
													thương yêu con cháu nữa. Từ 
													nay, chúng tôi sẽ không c̣n 
													mang cơm, sẽ không c̣n mang 
													nước cho ma nữa. Nếu muốn ăn 
													thịt ǵ, xin ma hăy hỏi thần 
													Trăng; nếu muốn ăn cá, ăn 
													thịt, xin may hăy hỏi thần 
													trên trời. Thôi, từ nay, thế 
													là hết, như lá m'nang đă ĺa 
													cành như lá m'tư đă tàn úa".
													
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Khi tế cúng vừa xong, 
													th́ lập tức, trong ánh lửa 
													bập bùng của hàng chục đống 
													lửa và dưới ánh trăng mát 
													dịu, tiếng cồng chiêng rộn 
													ră nổi lên. Theo nhịp âm 
													thanh cồng chiêng mọi người 
													ḥa vào đoàn múa diễu quanh 
													ngôi nhà mồ nhấp nhô huyền 
													ảo trong đêm. tiếng nhạc 
													cồng chiêng của đêm bỏ mả, 
													như một sức hút diệu kỳ, kéo 
													tất cả dân làng, kéo bà con 
													họ hàng ở buôn gần, buôn xa 
													tới. Càng về khuya, tiếng 
													cồng chiêng càng rộn ră, 
													thôi thúc, các đống lửa càng 
													bùng to hơn, nhịp chân múa 
													nhảy càng rộn ră hơn. Hầu 
													như suốt cả đêm cho đến sáng, 
													cả làng quây quần bên ngôi 
													nhà mồ: ai múa nhảy cứ múa 
													nhảy, ai đánh cồng chiêng cứ 
													đánh; ai uống rượu cứ uống, 
													ai mệt th́ ngủ ngay bên 
													những đống lửa ấm áp để sáng 
													hôm sau bước vào ngày hội 
													chính của lễ bỏ mả - ngày vỡ 
													(p'chăh) hay ngày ăn lớn (hoă 
													prong). 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Sáng hôm hoă prong, vào 
													khoảng 6, 7 giờ sáng, các 
													gia đ́nh cùng chung làm lễ 
													bỏ mả dắt trâu hoặc ḅ đến 
													buộc quanh ngôi nhà mả; đem 
													những ché rượu tới cột thành 
													từng hàng dài bên nhà mả. 
													Sau đấy, những con vật bị 
													giết đem thui và làm thịt. 
													Thịt, xương trâu ḅ được chế 
													biến ra thành nhiều loại 
													thức ăn, nhiều món thức ăn: 
													có loại dành riêng để chia 
													cho những người chết được 
													gọi là thịt tế lễ (m'nong 
													dưm), có loại để chia cho 
													những người tới dự (chơnút 
													m'nong). Khi thức ăn đă được 
													chế biến xong, các bà, các 
													chị nổi lửa đun nấu thức ăn 
													rồi chia ra những chiếc mâm 
													lá chuối được bày la liệt 
													quanh ngôi nhà mồ. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Trong khi dân làng lo 
													chuẩn bị cho bữa ăn lớn hay 
													bữa cơm bỏ mả (hoă sơi bơxat), 
													th́ các gia đ́nh có người 
													chết đem mía (phun tbou) và 
													chuối (phun a'tơi) đến trồng 
													bên cạnh nấm mộ, đem gói cơm 
													và gói thịt cùng ché rượu và 
													con gà nhỏ (ană mnu) đặt lên 
													mộ rồi ngồi khóc lần cuối 
													vĩnh biệt người chết. Để 
													không khí hôm bỏ mả đỡ buồn, 
													dân làng và khách các nơi 
													tới đánh cồng chiêng, múa 
													nhảy thành đoàn đi quanh nhà 
													mả. Đến quá trưa, cả khu nhà 
													mả thật sự đă thành một bữa 
													ăn cộng cảm lớn. Từng tốp, 
													từng tốp ngồi quây quần bên 
													các mâm cơm (mâm bằng lá 
													chuối) cạnh những ché rượu 
													cần vừa ăn uống vừa tṛ 
													chuyện vui vẻ. Các bà, các 
													cô cũng đem phần cơm, thịt 
													và rượu vào nhà mả để những 
													người trong các gia đ́nh có 
													người chết ăn uống và tâm sự 
													lần cuối với người thân đă 
													khuất của gia đ́nh ḿnh.
													
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Lúc bữa cơm cộng cảm kết 
													thúc cũng là lúc người chủ 
													lễ đến bên bàn thờ đọc lời 
													cúng bỏ mả với nội dung như 
													sau: "Xin ma đừng gọi, đừng 
													lại gần, đừng thương yêu con 
													cháu của ma nữa. Chúng tôi 
													đă làm nhà mồ rồi, đă tạc 
													những cột kút, cột klao, đă 
													vẽ những h́nh vẽ bằng máu 
													trâu, máu ḅ rồi. Ché rượu 
													cúng đă đặt xuống mà rồi, 
													con gà con đă được thả rồi. 
													Chúng tôi đă bỏ ma rồi". Đợi 
													cho người chủ lễ đọc lời 
													khấn xong, mọi người vào nhà 
													mả đưa những người góa ra 
													sông tắm, chải đầu, mặc áo 
													váy, khố mới cho họ rồi đưa 
													họ về khu nhà mồ đang rộn 
													ràng tiếng cồng chiêng và 
													nhịp chân múa nhảy. Ai nấy 
													đều vui vẻ, hồ hởi mời, kéo 
													những người góa vào ṿng múa 
													của dân làng. Lúc này, những 
													người góa không c̣n xơa tóc, 
													không c̣n mặc khố, váy bẩn 
													rách của thời kỳ để tang nữa. 
													Lúc này họ đă mặc lên người 
													những bộ quần áo lễ hội mới, 
													đă nở nụ cười trên môi. Khi 
													những người góa nhập vào 
													đoạn nhảy múa của dân làng 
													là lúc họ đă được giải phóng, 
													đă không c̣n phải ràng buộc 
													ǵ với người đă chết nữa. Từ 
													nay, họ được sống cuộc sống 
													b́nh thường như mọi người, 
													nghĩa là được đi ăn uống vui 
													chơi ở các lễ hội, được 
													quyền tái giá nếu họ muốn. 
													Nước sông đă rửa sạch những 
													năm tháng chịu tang trên 
													người họ, lễ cúng cuối cùng 
													đă cắt đứt mọi quan hệ giữa 
													họ và những người chết. C̣n 
													những hồn ma của người chết 
													th́, sau lễ cũng cuối cùng, 
													đă được con gà con đưa về 
													buôn làng tổ tiên bắt đầu 
													một cuộc sống mới - cuộc 
													sống của những hồn ma để chu 
													kỳ tiếp theo sẽ lại trở về 
													làm người. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Sau những ṿng múa tưng 
													bừng sôi nổi giữa dân làng 
													và những người góa, lễ bỏ mả 
													coi như đă kết thúc và mọi 
													người ai nấy về nhà nấy, bỏ 
													lại phía sau ngôi nhà mả 
													xinh đẹp mà ḿnh vừa làm 
													xong cho thời gian và thiên 
													nhiên hủy hoại. Trước khi ra 
													về, mọi người bốc thóc ném 
													lên mái nhà mồ rồi tranh 
													nhau cướp lấy một số hạt 
													thóc từ mái nhà mồ rơi xuống 
													đem về để được phúc và để 
													mùa tới làm ăn thịnh vượng. 
													Khi mọi người ném thóc lên 
													mái nhà mồ, ông chủ lễ nói 
													lời cuối cùng tuyên bố 
													(p'thao) bỏ mả: Thế là xong 
													hết tất cả rồi. Gia đ́nh và 
													dân làng đă bỏ mả rồi. Từ 
													nay chúng tôi không c̣n dính 
													líu ǵ với nhà mả nữa. Từ 
													nay, nếu xảy ra chuyện ǵ 
													không hay, không tốt với nhà 
													mả th́ cũng đành vậy thôi v́ 
													chúng tôi không c̣n ǵ dính 
													líu nữa. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Mặc dầu các nghi lễ đă 
													chấm dứt, ngôi nhà mồ đă bị 
													bỏ và các hồn ma đă ra đi, 
													những hội lễ bỏ mả c̣n tiếp 
													tục thêm một ngày nữa tại 
													các gia đ́nh của những người 
													chết vào ngày hôm sau. Hôm 
													đó, bà con họ hàng tới thăm 
													hỏi, ăn uống, vui chơi cùng 
													các gia đ́nh tại nhà họ chứ 
													không ra nhà mả nữa. Thức ăn 
													c̣n ǵ, gia chủ đem hết ra 
													đăi khách. V́ thế ngày cuối 
													cùng này của lễ bỏ mả được 
													gọi là ngày rửa nồi (săch 
													go). 
 
												
											 
											   
										 | 
									 
									
										
										 
										 | 
									 
									
										| 
										LỄ HỘI ĐÂM TRÂU 
										NGƯỜI GIA RAI - GIA LAI | 
									 
									
										
										
											
											 Thời 
											gian: Khi cây H’lưng đầu buôn, cây 
											Ê-táp giữa làng ra nụ, nở hoa, đó 
											chính là lúc buôn làng Gia Lai chuẩn 
											bị đón Hội đâm Trâu.  
											Địa điểm: Lễ hội đâm Trâu được tổ 
											chức 
											tại buôn làng Gia Lai.  
											Đối tượng suy tôn: Giàng (thần).  
											Đặc điểm: Lễ hội đâm Trâu là do 
											người Gia Rai và Bà Na tổ chức. Con 
											Trâu được cột quanh cây nêu và có 
											một thanh niên lực lưỡng được cử ra 
											để lănh trách nhiệm đâm Trâu. Máu 
											ḥa với rượu để cúng Giàng (thần). 
											
												
													 - Mỗi khi cây H’lưng đầu 
													buôn, cây Ê-táp giữa làng ra 
													nụ, nở hoa, đó chính là lúc 
													con trai, con gái các buôn 
													làng Gia Lai chuẩn bị đón 
													hội hè. Gặt hái xong xuôi là 
													thời gian nghỉ ngơi, mọi nhà, 
													buôn làng đều tổ chức các lễ 
													hội như Hội bỏ mả (Mnăm Lui 
													Msat), Lễ ăn cơm mới (Huă 
													Esei Mrâo), Lễ đâm trâu (Mnăm 
													thu)... tưng bừng, rộn rịp 
													với các tṛ vui chơi, ăn 
													uống no say. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Cũng như nhiều dân tộc 
													khác ở Tây Nguyên, người Gia 
													Rai, Bà Na ở Gia Lai tổ chức 
													Lễ hội đâm trâu vô cùng hào 
													hứng thu hút đông đảo mọi 
													người cùng tham dự. Tùy theo 
													gia cảnh và tùy theo số 
													lượng người đến tham dự mà 
													gia chủ có thể giết nhiều 
													trâu để đăi khách. Và lần 
													lượt mọi nhà có thể thay 
													phiên nhau tổ chức những 
													cuộc vui suốt sáng thâu đêm 
													bên ghè rượu cần thơm ngon, 
													bên gùi cơm lam nóng hổi và 
													những xâu thịt nướng thơm 
													phức... 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Gần ngày lễ Mnăm Thu. 
													Gia chủ cử người vào rừng 
													chặt tre, cây blang (cây g̣n 
													núi) đem về làm cột blang 
													Kbâo. Cột blang Kbâo giống 
													như cây nêu ở miền xuôi 
													nhưng công dụng th́ khác 
													hẳn. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Thầy cúng sẽ giúp gia 
													chủ chọn chỗ để đào lỗ trồng 
													cây nêu, thường là ở giữa 
													sân nhà. Trong lúc đào lỗ, 
													cả nhà ăn mặc quần áo mới 
													đứng vây quanh, vừa la vừa 
													hú, vừa khấn vái trời đất, 
													xong mới chôn trụ nêu. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Sau khi dựng nêu xong, 
													họ đem trâu đến cột dưới cây 
													nêu. Dây cột trâu phải lựa 
													dây thật mềm và chắc. Thế 
													rồi giờ cử hành lễ bắt đầu. 
													Người trong buôn làng kéo 
													đến vây quanh cây blang 
													Kbâo, khua chiêng, thúc 
													trống rồi múa hát với giọng 
													ê a. Trong lúc đó, thầy cúng 
													lấy một chiếc nồi đồng đem 
													ra đặt ở trước nhà, đứng hai 
													chân trên miệng nồi rồi làm 
													phép cúng vái. Một thanh 
													niên nhanh nhẹn, thông minh 
													và lực lưỡng nhất được cử ra 
													để nhận lănh trách nhiệm đâm 
													trâu. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Anh chạy theo con trâu 
													quanh cột cây nêu, tay cầm 
													con dao Kgă, vừa chạy vừa 
													múa dao, thừa lúc thuận tiện 
													anh chém đứt khuỷu chân trái 
													sau con trâu. Bị đau, con 
													vật lồng lộn chạy bằng ba 
													chân, anh rượt theo, vừa múa 
													dao, thừa lúc thuận tiện 
													nhất anh chém tiếp chân phải 
													của nó. Con vật ngă khuỵu 
													hai chân sau, lết quanh chân 
													nêu. Lúc bấy giờ anh mới 
													dùng cây giáo dài, vừa múa 
													vừa chạy theo con trâu trong 
													tiếng reo ḥ cổ vũ của mọi 
													người tham dự. Đúng lúc 
													thuận tiện, anh đâm mạnh cây 
													giáo vào sườn trâu, trúng 
													thẳng vào tim con vật làm 
													cho nó chết ngay tức khắc.
													
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Qua tài đâm trâu của 
													anh, mọi người đều nhiệt 
													liệt tán thưởng, c̣n các cô 
													gái th́ bàn tán xôn xao.
													
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Con trâu vừa chết, các 
													thanh niên trong buôn làng 
													nhào ra phanh thây trong khi 
													thầy cúng mang sẵn chiếc nồi 
													đồng to tướng trong đó có 
													chứa ít rượu đem đặt ngay 
													cạnh vết thương con vật để 
													hứng lấy máu. Máu ḥa với 
													rượu để cúng Giàng (thần). 
													Người thầy cúng c̣n cắt một 
													tí tai, mũi, mắt và lông 
													đuôi con trâu rồi lấy máu 
													bôi vào hai que tre để xin 
													keo. Sau đó, thầy cúng đem 
													những thứ nói trên vào nhà 
													làm lễ và đặt hai que tre 
													lên mái nhà. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Buổi lễ kể như đă xong, 
													mọi người cùng nhau uống 
													rượu cần, ăn thịt trâu nướng, 
													dùng cơm lam và trứng gà...Trong 
													khi đó, từng tốp thanh niên 
													lực lưỡng khua chiêng, trống 
													âm vang lan tỏa khắp buôn 
													làng, nương rẫy, sông suối, 
													núi rừng... 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Nhiều bà con đến tham dự 
													cũng mang theo các ghè rượu 
													cần để góp vui cùng gia chủ. 
													Rượu vào, lời ra. Các cụ già 
													bắt đầu kể Khan Hơmon, c̣n 
													gái trai Trường Sơn ra sức 
													múa hát, quay cuồng bên bếp 
													lửa hồng cho đến thâu đêm.
													
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Con gái lớn lên để ngực 
													trần 
 
												
												
													 - Tay tṛn trịa múa mềm 
													ngọn lửa 
 
												
												
													 - Họ đâm trâu thiêng liêng 
													tiếng hú 
 
												
												
													 - Đôi mắt em thăm thẳm 
													hoang sơ 
 
												
												
													 - Hơmon ơi có tự bao giờ
													
 
												
												
													 - Nghe ai hát em theo về 
													làm bạn 
 
												
												
													 - Không uống rượu sao ấm 
													nồng giữa ngực 
 
												
												
													 - Bài hơmon nào không có 
													chuyện yêu đương 
 
												
												
													 - (Thơ Xuân Mai) 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Người ta túm tụm xung 
													quanh các ghè rượu cần thơm 
													ngon. Kẻ kéo, người mời, 
													tiếng cười nói râm ran. 
													Người ăn cứ ăn, người uống 
													cứ uống, ai kể khan cứ kể, 
													ai múa hát cứ tiếp tục... 
													nguồn vui kéo dài hầu như 
													bất tận. Nhiều người no say 
													quá nằm ngủ ngay tại chỗ măi 
													đến ngày hôm sau mới trở về 
													nhà. 
 
												
												
													 -  
 
												
												
													 - Cứ như thế, từ gia đ́nh 
													này đến gia đ́nh khác, từ 
													buôn làng này đến buôn làng 
													khác, lễ Mnăm Thu - tức lễ 
													đâm trâu - được tổ chức suốt 
													mùa tạnh ráo khắp buôn làng 
													Gia Lai.
 
												
											 
											   
										 | 
									 
									
										
										
											
												| 
												
												LỄ HỘI 
												LÂM ĐỒNG | 
											 
											
												
												
													
														
															| 
															
															
															LỄ HỘI GIỖ TỔ NGHỀ 
															THÊU - LÂM ĐỒNG | 
														 
														
															
															
																
																 Theo 
																thông lệ hàng 
																năm, ngày 
																12-13/6 âm 
																lịch 
																
																tại khuôn 
																viên "Đà Lạt Sử 
																Quán" lại tổ 
																chức nghi lễ 
																tưởng nhớ Ông tổ 
																nghề thêu là cụ 
																Lê Công Hành. 
																Đây là ngày hội 
																giỗ tổ của các 
																nghệ sĩ, nghệ 
																nhân, người thợ 
																của nghề thêu 
																tay  
															
																
																Nghi thức giỗ tổ 
																chia làm hai 
																phần, trong phần 
																lễ, du khách sẽ 
																thấy không khí 
																trang trọng buổi 
																lễ hành hương về 
																pḥng thờ Đức tổ 
																nghề thêu của 
																các của các nghệ 
																sĩ, nghệ nhân, 
																người thợ. Phần 
																hội là phần 
																chính trong hai 
																ngày lễ này, rất 
																sôi động, như lễ 
																hội ẩm thực ba 
																miền và những 
																món ăn của đồng 
																bào dân tộc ít 
																người miền cao 
																nguyên. Trong lễ 
																hội hoa, mọi 
																người tha hồ 
																chiêm ngưỡng 
																những hoa đẹp, 
																độc đáo của 
																thành phố Đà Lạt. 
																Hay như lễ hội 
																rượu vang, lễ 
																hội rượu hương 
																tri kỉ...tất cả 
																đều mang lại một 
																chút ấm áp cho 
																du khách khi 
																sương trời buông 
																xuống. Trong dịp 
																này du khách sẽ 
																được chiêm 
																ngưỡng những tác 
																phẩm thêu đặc 
																sắc, tinh tế do 
																bàn tay người 
																thợ thêu từ các 
																nơi làm ra.  
																
																Về đêm, các 
																chương tŕnh như 
																đêm thơ, đêm 
																nhạc, chương 
																tŕnh biểu diễn 
																thời trang...tạo 
																nên không khí 
																vui tươi. Trong 
																chương tŕnh lễ 
																hội giỗ tổ hàng 
																năm, cuộc thi 
																đôi bàn tay vàng 
																thu hút được rất 
																nhiều người quan 
																tâm. Tại đây các 
																nghệ sĩ, nghệ 
																nhân, người thợ 
																đến từ nhiều nơi 
																sẽ cùng nhau thể 
																hiện tài năng 
																thêu thùa của 
																ḿnh, lúc này 
																chúng ta tận mắt 
																chứng kiến từng 
																công đoạn cầu kỳ, 
																phức tạp để làm 
																ra được một bức 
																tranh thêu 
																   
															 | 
														 
													 
												 
												 | 
											 
										 
										 | 
									 
								 
							 
							 |