Home T́m Ca Dao Diễn Đàn T́m Dân Ca Phổ Nhạc T́m Câu Đố T́m Chợ Quê Góp Ư Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

 

 
Lễ Hội Quảng B́nh

HỘI BƠI TRẢI

Hội bơi trải: Hội bơi trải truyền thống phổ biến khắp các làng vùng sông nước để kĩ niệm những sự kiện lịch sử có liên quan đến làng và các vị thần thánh có công với làng. Lễ hội vừa mang màu sắc tâm linh: lễ tế thần và cầu siêu cho vong hồn người tử nạn trên sông nước, vừa là ngày hội vui chơi (ḥ khoan, chèo cạn, múa bông....) dịp để dân làng thi tài vật lộn với sông nước và thao diễn kĩ thuật nghề sông nước, mang tinh thần thượng vơ.
Hội bơi chải đă thành tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa - tinh thần của nhân dân ta, đặc biệt là bà con ngư dân sinh sống dọc theo vùng sông nước trong dịp hội hè hay các ngày lễ, tết.

Ở Quảng B́nh, hội bơi trải thường được tổ chức ở những nơi gần biển, gần sông như làng Cảnh Dương. Nhân dân Cảnh Dương thường tổ chức hội bơi trải vào tháng khởi đầu của vụ cá Nam (tháng 4, tháng 5 Âm lịch). Tham gia cuộc bơi thi có 4 thuyền (4 trải), mang 4 màu cờ và khăn áo khác nhau: xanh, đỏ, tím, vàng. Mỗi thuyền có từ 8 đến 12 tay cầm, 2 người chèo lái, một người đánh nhịp, một người tát nước, một người chạy thẻ. Mở đầu cuộc thi là cuộc chạy thẻ tiếp sức từ sân Đ́nh Lớn xuống bến sông - nơi có thuyền đậu. Trải nào nhận được thẻ trước th́ xuất bến trước. Hội thi bơi của làng Cảnh Dương diễn ra trong một ngày, đường bơi cả đi lẫn về chừng 2 km, dọc sông Ṛn, gần cửa lạch ngược lên. Buổi sáng bơi một 1 ṿng, buổi chiều bơi 4 ṿng, điểm tính chung cho cả cuộc bơi. Người làng cho rằng: thuyền nào dành được giải nhất th́ năm ấy chủ thuyền và bạn, lái làm ăn phát đạt. Hội thi bơi thu hút hàng ngàn người đến xem. Người xem đứng hai bên bờ sông, vẫy tay, khoát nón, reo ḥ cổ vũ cho hội nhà. (internet)

LỄ HỘI CẦU MÙA BẢO NINH

Lễ hội Cầu mùa Bảo Ninh: Đây là lễ hội tiêu biểu của người dân vùng ven biển Quảng B́nh. Lễ hội diễn ra từ ngày 14 đến 16 tháng 4 Âm lịch hàng năm tại làng biển Bảo Ninh - TP Đồng Hới.
Đ́nh làng Bảo Ninh thờ Nhân thần (Hai cha con người đánh cá) và Cá Ông (cá Voi đă cứu dân làng khỏi bị đắm thuyền trong các trận băo). Lễ hội Cầu mùa Bảo Ninh có hai phần: Phần lễ mở đầu có tục rước cốt Ông từ làng về đ́nh, có diễn “ḥ khoan, chèo cạn, múa bông”. Tiếp theo là ngày hội xuống biển, làm lễ cầu khấn của một làng nghề đánh cá với những ước mơ về một vụ mùa bội thu. (internet)

HỘI ĐUA THUYỀN

Hội đua thuyền: Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời sống, phong tục, lễ hội của người Việt Nam từ cổ xưa đến nay. Văn hoá vùng sông, biển với những tục lệ lâu đời đă thành phong tục đặc sắc là vốn quư trong kho tàng văn hoá dân gian bản địa cổ truyền. Mỗi vùng miền, hội đua thuyền đều có những đặc trưng khác nhau.

Lễ hội đua thuyền ở sông Kiến Giang (Lệ Thuỷ - Quảng B́nh) lại mang nét đặc sắc khác. Tương truyền, vùng chiêm trũng Lệ Thủy ngày xưa thường cầu mưa ’’lấy nước để uống, lấy ruộng để cày’’. Mùa hạn, dân làng cúng lễ và ’’hô huầy’’ đẩy thuyền xuống sông. Lâu dần tục lệ đă biến thành ngày hội chung của cả huyện. Các làng xă thi nhau việc chuẩn bị thuyền tốt, trai bơi tài, người lái giỏi. Nếu chưa có thuyền dài gấp rưỡi nấc ngang, phải t́m gỗ tốt, mời thợ đóng mới sao cho thuyền thon nhẹ và lướt nhanh. Cùng với việc tuyển chọn tay chầm, tiến hành bơi thử, t́m bạn bơi thử nhằm kiểm tra sức dẻo dai với tốc độ cao trên con đường ba ṿng sáu tao. Đường bơi trong các cuộc đua thường trên dưới 20 km tùy theo giải xă hay huyện. Tuyến độc nhất thường chọn từ trước đến nay là thượng tiêu cầu Trạm (Mỹ Thủy) qua chợ Thùi - Phú Thọ (An Thủy) và hạ tiêu mũi Viết Thượng Phong (thị trấn Kiến Giang) cũng là điểm buông phao.

Hàng năm cứ vào ngày Quốc khánh 2-9, hội đua thuyền truyền thống lại diễn ra sôi nổi và hào hứng trên sông Kiến Giang với sự tham gia của nhiều xă trong huyện. Nhân dân xem đó là Tết độc lập v́ sau "toóc nạp rơm khô" cả thời gian và đời sống đều no đủ. Từ đó hội đua thuyền đông vui náo nhiệt hơn kéo dài đến cả tháng mới đủ cho công việc tập dượt, tranh giải thôn xă và toàn huyện. Nhân dân náo nức chuẩn bị dụng cụ cho hội, ’’khuấy động’’ một vùng sông nước Kiến Giang. Khách thập phương đổ về huyện lỵ, trong Nam ra, ngoài Bắc vào, cả những xă miền núi "cơm đùm gạo bới’’ ngủ lại qua đêm chờ xem bơi ngày tới. Có năm số đơn vị tham gia lên tới 36 thuyền nam nữ khiến ban tổ chức phải t́m mọi cách mới đảm bảo chương tŕnh.
Hội đua thuyền trở thành nét đẹp văn hóa thể thao truyền thống từ ngàn xưa đáng trân trọng, giữ ǵn và phát triển

LỄ HỘI ĐẬP TRỐNG THÁNG GIÊNG

Tộc người Ma Coong và lễ hội đập trống rằm tháng Giêng: Sau Tết Nguyên đán của người Kinh, thường đến đêm trăng trong 16 tháng Giêng âm lịch là tộc người Ma Coong có Lễ hội đập trống. Đây là lễ hội vô cùng độc đáo của tộc ít người ở phía Tây Quảng B́nh cho đến nay c̣n giữ nguyên được giá trị nguyên bản, nguyên sơ thu hút nhiều khách du lịch tham quan trong và ngoài nước khi về Quảng B́nh trúng dịp được tham dự.

Tộc người Ma Coong ở rải rác nhiều nơi của phía Tây Quảng B́nh nhưng mật độ tập trung đông nhất là vùng huyện Bố Trạch nên lễ hội thường được tổ chức ở tại bản Cà Rọng xă Thượng Trạch. Đây là lễ hội mà theo các nhà nghiên cứu văn hoá cho biết, một lễ hội giàu tính bản địa với ư nghĩa sâu sắc là sự cầu may, cầu sức mạnh, cầu vượt qua tai hoạ, cầu sự phù hộ chung của Trời - Đất cho người dân tộc ở khắp mọi nơi.

Cùng với biết bao lễ hội từ Bắc vào Nam, miền ngược cũng như miền xuôi ở nước ta th́ Lễ hội đập trống của tộc người Ma Coong tại nơi đây có sự độc đáo của nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc nhất. Dù trong điều kiện núi rừng hoang sơ cách trở, lại trải qua sự khác biệt của nhiều cuộc chiến tranh và những điều kiện khó khăn, khắc nghiệt khác nhưng cho đến nay người Ma Coong họ vẫn bảo tồn, lưu giữ được giá trị di sản văn hoá phi vật thể vô cùng qúy báu này.
Các già bản vẫn thường kể lại cho con cháu rằng: Ngày xửa, ngày xưa ở bản Cà Rọng này dân sống rất khổ, đàn ông vấn đăi ngày ngày vào rừng săn bắn, đàn bà trùm mấn, ngực để trần ngày ngày lên rẫy phơi sương, phơi gió vô cùng vất vưởng. Quanh năm làm lụng tất bật nhưng không đủ trái ngô, củ sắn để được no bữa. V́ đói kém, con người, con vật tranh giành nhau mỗi khi vụ mùa sắp thu hoạch. Nguy hại nhất là nhiều đàn khỉ đông đến hàng ngh́n con kéo từ bốn phía núi cao tới hoành hành. Trong mỗi đàn khỉ có một con hung dữ, không chỉ đến cướp hoa trái mà c̣n doạ bắt phụ nữ, trẻ em khi lên rẫy một ḿnh. Nỗi lo sợ ấy luôn ám ảnh họ mà chưa có cách nào để đuổi được đàn khỉ quái ác ấy đi. Một hôm có một vị Già bản mang gùi lên rẫy đi hái củi đốt th́ trời kéo mây đen sập xuống thấp. Bỗng có một tia chớp rạch trời sáng loà rồi tiếng sấm bất th́nh ĺnh đ́ đùng nổ ran dây chuyền inh tai, váng óc. Khi nghe tiếng sấm, cả lũ khỉ đều hoảng sợ rầm rầm xô nhau lúc nhúc chạy vào hang làn gần đó ẩn nấp không dám ló mặt ra. Mấy con khỉ to v́ quấn dây chằng chịt vào người để dắt trái cây quá nặng mà phải chạy chậm ́ ạch liền bị tiếng sét đánh chết ngay phía cửa hang, xác cháy đen thui đen thủi. Kể từ đó lũ khỉ rất sợ mỗi khi tiếng sấm dậy trời. Vậy là Già bản nghĩ ra được cách làm tiếng sấm để hù doạ lũ khỉ mỗi khi chúng kéo đàn tràn xuống phá rẫy. Đó là dùng da con nai bịt vào một khúc cây gỗ rỗng ruột rồi dùng que gỗ đánh lên mặt da phát ra tiếng đùng đùng như sấm. Và từ đó mỗi khi trống đánh lên th́ lũ khỉ cũng khiếp hồn bỏ rẫy chạy trốn. Nhờ Già bản sáng tạo ra chiếc trống sấm ấy mà từ đó năm nào rẫy nương cũng được bảo toàn, cây trái của rừng cũng thu hoạch tốt, bản luôn được mùa no đủ và cuộc sống được ấm êm hơn.

Để nhớ công lao vị Già bản tiên tổ người Ma Coong và cầu cho quanh bốn mùa làm ăn thuận lợi, hàng năm cứ đến ngày 16 tháng Giêng âm lịch, họ tổ chức việc cúng tế linh đ́nh dâng lên Thần linh những của ngon vật lạ sinh lợi được trên vùng đất họ ở. Hoạt động ấy dần dần thành một lễ hội lớn của dân tộc người Ma Coong ở đây.

Lễ thức của Lễ hội đập trống diễn ra theo những quy định của dân bản rất nghiêm ngặt và chặt chẽ. Bản trao quyền cho người Già bản già nhất tức là người t́m ra miền đất đang ở (trước đây người dân tộc này di trú 3 năm 1 lần do vị Già bản đi t́m đất đẹp và yên ổn, thuận lợi). Trước khi lễ, mỗi tộc họ được phân công chuẩn bị một mâm cỗ, đồ lễ trong mâm gồm các thứ được quy định:

- Thực vật gồm: Gạo nếp, bắp chuối rừng, đọt cây mây, đọt cây đoác.
- Động vật gồm: Con gà trống, cá đánh nơi Suối cấm.
- Đồ uống gồm: Rượu Hiêng (tinh rượu gạo nếp).

Trống lễ được chuẩn bị như sau: Tang trống được đẵn ra từ cây ’’Chi Cúp’’. Đây là cây có gỗ tốt, nhiều xơ nhặng, mưa nắng không mục, không nứt vỡ, ruột rỗng và sống nhiều năm tuổi ở rừng. Mặt trống được bịt bằng da con nai săn bắn về. Nay hiếm nai nên bịt bằng da trâu rừng. Đa trâu rừng được căng phơi cẩn thận và khi khô th́ cuộn chặt cất trên gác để luôn giữ được khô ráo.

Cách bịt trống: Tang trống được dùng dao sắc gọt phẳng hai đầu, bọc da vào đầy hai mặt rồi lấy dây mây ràng kín và dùng hàng trăm chiếc nêm tre kéo rán, nêm chặt sao cho mặt căng là đạt yêu câu. Khi trống căng ra cả hai đầu đứng xa trông như một quả cầu gai thật to lớn. Dùng dùi mây xoong dài 3 gang gọt nhẵn gơ lên, trống phát ra một thứ âm thanh vang dội thật kỳ lạ. Âm thanh ấy chính là tiếng nói, là hiện thân của vị Thần linh nghiệm, thần kỳ của người Ma Coong không bị thế lực hung dữ như mưa băo, núi lở, đất sập khuất phục được. Theo tục lệ quy định th́ trống chỉ được ghép trước một ngày trước khi lễ hội. Làm trống phải chọn những người già làng giàu kinh nghiệm và các chàng trai khoẻ mạnh, làm ăn may mắn trong năm. Cũng theo tục lệ quy định, cá suối để cúng Thần phải được đánh lưới về ở con Suối cấm. Suối cấm mỗi năm chỉ được đánh một lần và chỉ có Già làng mới được mang lưới xuống suối đánh. Có như thế mới giữ được tinh sạch khi cúng lễ và khi cúng Thần mới trưng dùng.

Cách hành lễ được tổ chức như sau: Tối 16 vào lúc trăng vàng vừa chênh chếch ở phía Đông là tính giờ bắt đầu lễ. Già bản vào làm chủ lễ. Chủ lễ mặc váy áo màu đen có những hoạ tiết sặc sỡ, đầu đội tóc dài xoả xuống vai, phủ xuống tận eo lưng. Người đến lễ ăn mặc đẹp, kiểu phục trang truyền thống dân tộc có gắn cúc bạc, cổ đeo ṿng kiềng, tay nhiều ṿng bạc lấp lánh khi chuyển động. Tất cả cùng xếp hàng quay mặt vào bàn lễ trang nghiêm. Bàn lễ có năm mâm cỗ bày sẵn, tượng trưng Ma Coong có năm nhánh họ chính. Chủ lễ khấn lễ và làm phép đọc lời cầu khấn kéo dài nửa canh giờ. Khi xong lễ, chủ lễ cầm dùi mây tiến lại phía đặt trống đánh một hồi dài vang lên chuyền rền khắp núi. Sau đó lần lượt đại diện năm ḍng họ chính lên đánh trống rồi tiếp tục là con cháu, gái trai, già trẻ... mỗi người cầm một dùi trống chuẩn bị sẵn chen nhau vào đánh lên mặt trống. Ai đến đánh trống cũng kêu lên một câu ’’ Rao lữ Giàng ơi’’ (sướng quá trời ơi) hoà với tiếng trống gơ inh tai, váng óc. Mọi người theo nhau đánh trống cho đến khi trống thủng mới thôi và lửa bếp cũng bắt đầu tàn, trả lại cho rừng bóng đêm trùm xuống. Đây cũng là điều kiện cho các đôi trai gái, các đôi bạn t́nh được dịp t́m gặp nhau bằng những tín hiệu thiêng liêng của con tim. Theo tục lệ người nào t́m được bạn th́ năm mới làm ăn gặp được may mắn.

Cho đến khi từ bốn phía gà rừng gáy ran họ lại chia tay nhau, không vướng bịu, không buồn nản, không lời từ biệt, ai về bản nấy. Mỗi người cứ vậy theo cuộc sống riêng của gia đ́nh làm nương, phát rẫy với niềm hy vọng của sự may mắn mà lễ hội thiêng liêng mang lại cho họ và chờ đợi lễ hội năm sau. (internet)

LỄ HỘI ĐỀN THỜ PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

Lễ hội đền thờ Phù Đổng Thiên Vương: Lèn Vịnh là tên gọi từ xa xưa một ḥn núi ở xă Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch. Từ thuở khai thiên lập địa, Lèn Vịnh mọc lên giữa làng Tiên Lệ như một tấm b́nh phong lớn cao sừng sững. Những khi mây xuống thấp tưởng như chạm đến đỉnh trời. Nơi đó trở thành chốn thâm nghiêm và đầy sự uy linh. Hàng năm cứ vào dịp sau giỗ Tổ Vua Hùng 10-3 một tháng, đúng ngày 8-4 th́ nhân dân làng Tiên Lệ lại cùng nhau tổ chức lễ hội đền Phù Đổng Thiên Vương.

Người làng Tiên Lệ kể lại rằng: Trước đây rất lâu người Tiên Lệ đời sống rất khổ cực. Cảnh mất mùa đói kém luôn luôn xảy ra. Quanh năm chỉ lấy nghề rừng rú làm nguồn chính cho cuộc sống. Từ người già đến trẻ con ngày ngày lên rừng hái các loại trái cây như thị, mít nài, hạt muồng, hạt sót, hạt dẻ... chạy về Trung Thôn, Biểu Lệ bán buôn ở phiên chợ Sải hoặc xuống tận Minh Lệ dự phiên chợ Mới, xa hơn th́ phiên chợ Ba Đồn rồi mua gạo mua khoai đem về cho gia đ́nh đắp đổi qua ngày. Không hiểu nhờ trời phật phù hộ thế nào mà liên tiếp mấy năm tự nhiên làng Tiên Lệ được mùa to, trồng trọt cây ǵ cũng cho thu hoạch khá, từ đó đời sống hết cảnh hắt hiu.
Một cụ già cao niên nhất trong làng nhân một buổi hội đ́nh, cụ đem chuyện giấc mơ cụ gặp được con Thần, con Thánh về hộ sức cho làng kể lại để mọi người nghe. Cụ kể rằng: Vị Thần về giúp làng đầu đội mũ kim ô ngồi trên con ngựa sắt, tay cầm roi sắt rượt đuổi bọn giặc lân bang từ phương Nam đến quậy phá. Sau khi đuổi được giặc chạy xa rồi th́ vị Thần quay về trên đường đi ngang qua vùng Tiên Lệ thấy cảnh đẹp sinh t́nh nên đă ghé lại cùng binh sĩ nghỉ sức một đêm. Khi biết dân Tiên Lệ c̣n nhiều khổ cực, vị thần xin Nhà Trời ở lại dạy dân cày cấy, trồng trọt. Một thời gian sau khi mọi công việc cấy hái người dân đă được thuần thục th́ một ḿnh Thần cưỡi lên ḿnh ngựa bỏ lại binh lính rồi bay ra phía bắc đến đậu xuống vùng Nghĩa Lĩnh. Nhưng Thần cũng ở đấy chỉ một thời gian rồi lại bay tít lên trời không quay trở lại.

Sau khi nghe ông cụ kể lại giấc mơ đẹp, vị Tiên chỉ làng liền bàn với chức sắc trong làng một kế hoạch rồi cử một đoàn đinh tráng hai mươi người khoẻ mạnh khuân theo gạo, nếp, lợn, ḅ trồng nuôi trên đất Tiên Lệ đi bộ gần một tháng ra tận Đền Hùng xin làm lễ tế. Sau lại đến đền thờ Thánh Gióng tổ chức lễ tạ ơn và xin đất, xin lập lư hương rước về làng thờ. Chỉ một thời gian rất ngắn huy động người có công, người có của, làng xây lên ngay giữa Lèn Vịnh một ngôi đền to đẹp nhất vùng và rất trang nghiêm. Đền xây xong làng tổ chức hội đền kéo dài ba ngày đêm đèn đuốc thắp sáng trưng cả một góc núi. Người mọi vùng nườm nượp kéo về cầu yên, cầu bổn mạng. Nh́n bức phong chính giữa đền tạc h́nh Phù Đổng Thiên Vương ngồi trên ngựa sắt tay cầm roi sắt hai bên có hai vị tướng hộ tống ngước mắt nh́n Thần bay lên trời làm cho người người đến đây đều tỏ ḷng kính cẩn.

Từ đó cứ hàng năm đến ngày tế lễ dân hai giáp: Giáp Đông và Giáp Đoài được chức sắc làng phân công trực tiếp làm cỗ cúng thi. Các loại xôi, các loại bánh phải lấy hạt gạo, hạt nếp tự làm ra trên đồng làng mà chế biến mâm cỗ cúng. Để có các loại xôi bánh tốt, khi mùa lúa chín sắp gặt làng bắt những thanh niên ra ruộng chọn những bông tốt nhiều hạt chắc lảy đem về cột chùm phơi riêng rồi cất lên sàn nhà cả bồng chẹn. Khi nào sắp lễ mới đem bồng chẹn xuống đạp ra lấy hạt lúa xay giă thành gạo. Khi thành gạo rồi, làng tuyển các cô gái giỏi giang một lần nữa chọn ra những hạt gạo cật, trắng nguyên vẹn không vỡ mới đem đồ xôi. Sau khi nếp ngâm vớt ra rồi, cách hông cũng rất công kỹ. Khi hông xôi phải trải qua ba bước, bước một hông hạt nếp đều hơi th́ đổ ra nong quây mỏng cho nguội, khi hết hơi th́ cho đổ vào hông lần hai lại làm như lần một, rồi lại hông tiếp lần ba xôi mới đạt yêu cầu. Khi xôi được rồi th́ một nửa cho đơm vào mâm, c̣n một nửa bỏ vào cối giă, đầu chày giă phải bọc bằng lụa mo cau. Cứ một lần giă có ba thanh niên cầm chày nện nhíp ba, đến khi nào mệt th́ thay kíp. Khi nếp đă nhuyễn thành bánh rồi th́ thôi giă, lấy tiếp một người khoẻ dùng tay vắt cả nhả bánh đă nhuyễn ném mạnh vào ḷng cối, ném cho đến khi nào bánh không dính cối mới đạt yêu cầu. Bánh đạt yêu cầu phải có ba tiêu chuẩn trắng, dẻo, mượt. Đó là nh́n bằng mắt c̣n sau khi cúng xong bưng mâm bánh xuống đem ra cho các chức sắc chứng giám bằng cách một người cầm con dao thật bén cắt đôi chiếc bánh ra. Mâm giáp nào mặt bánh ĺ không có những lỗ hơi rỗng phía trong mới là thắng cuộc và giáp đó được nhận phần thưởng của làng. Có những năm, tháng tư trời đại hạn, lúa đồng khô kiệt nước, cây cối rũ héo, th́ lễ tế đền thờ Phù Đổng Thiên Vương c̣n kết hợp với lễ cầu đảo để cầu mưa xuống. Lễ thường kéo dài ba bốn ngày. Nhiều năm cứ sau lễ cầu đảo là trời đổ mưa xuống ầm ầm thể hiện sự linh nghiệm, làm cho dân làng vui sướng và lại càng tin vào sự thiêng liêng của đền thờ.

Ngày trước, Tiên Lệ thượng xă nhập bảy xă lại gọi là Lệ Trạch. Đó là: Quảng Trung, Quảng Tân, Quảng Sơn, Quảng Thuỷ, Quảng Minh, Quảng Hoà. Việc cúng lễ hàng năm thường là hai giáp Đông, Đoài Tiên Lệ và ba mươi sáu phường ở vùng Tuyên Hoá đảm trách.

Đền thờ Phù Đổng Thiên Vương Lèn Vịnh là một di tích hiếm thấy ở Quảng B́nh. Việc ngày trước các hương quan làng Tiên Lệ ra tận đền thờ Thánh Gióng làm lễ tạ và xin đất lập lư hương cho đền thờ làng là chứng tỏ cộng đồng dân cư nơi đây có mối quan hệ với các bộ tộc người Việt từ rất sớm. Cách thức hông xôi và cách thức làm bánh dày cúng lễ cũng mang dấu tích các món ẩm thực quen thuộc của người Việt lâu đời. Giấc mơ của lăo làng với những chi tiết thánh thần dạy dân trồng trọt cũng là điều chứng tỏ người dân nơi đây đă biết sớm gieo trồng lúa nước. H́nh ảnh vị Thần cưỡi ngựa sắt, tay cầm roi sắt cũng chứng tỏ phương thức canh tác của người Tiên Lệ đă từ rất sớm hoà nhập với cộng đồng người Việt cổ để được phát triển cùng tiến tŕnh lịch sử chung cả nước. Dù sống gần núi nhưng là nhóm người tiếp cận sớm với văn minh phù hợp với nhận định chung: ’’Người Việt Quảng B́nh chiếm khoảng 98% dân số toàn tỉnh. Họ sinh sống trên hầu khắp các địa bàn của tỉnh, từ đồng bằng ven sông biển đến vùng g̣ đồi trung du. Từ vùng thị xă, thị trấn đến các vùng núi cao... Dân cư các làng xă Quảng B́nh có nguồn từ nhiều địa phương khác nhau ở phía Bắc di cư đến lập nghiệp. Các lớp dân cư của làng cũng diễn ra hết sức phức tạp trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, kể từ nửa thế kỷ XI cho đến nửa đầu thế kỷ XIX".

Mỗi vùng quê Quảng B́nh đều có lễ hội của vùng quê ḿnh mà lễ hội đền Phù Đổng Thiên Vương ở Lèn Vịnh Tiên Lệ từ lâu nay chưa hề được nhắc tới trong sách vở nào đang cần sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây, Lèn Vịnh là nơi vùng Việt Minh và du kích hoạt động, nơi bảo toàn lực lượng kháng chiến. Giặc Pháp đă bao phen tổ chức những trận càn quét và về đóng đồn Tiên Lệ để phong toả vùng du kích cũng như để ngăn lực lượng Việt Minh tràn về. Nhưng rồi chúng buộc phải rút lui sớm v́ luôn bị lực lượng kháng chiến từ Lèn Vịnh đêm ngày quấy rối và đốt cháy đồn.

Đền Thờ Phù Đổng Thiên Vương nơi Lèn Vịnh từ đó bị hư hại và đến nay không c̣n vẹn nguyên, chỉ lưu lại các khuôn nền cũng như các bậc cấp lên xuống đền mà thôi. Những bậc cao niên của làng Tiên Lệ khi nhắc đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương thường tấm tắc và vô cùng nuối tiếc một di tích lịch sử văn hoá hiếm của quê làng chỉ c̣n trong chuyện kể. (internet)

LỄ HỘI CẦU MÙA

Lễ hội cầu mùa của người dân ven biển xă Nhân Trạch: Đây là lễ hội dân gian truyền thống tồn tại từ lâu đời thể hiện giá trị văn hóa tín ngưỡng vô cùng độc đáo của ngư dân miền ven biển Quảng B́nh. Lễ hội cầu mùa phản ánh đời sống văn hoá tinh thần phong phú và những tín ngưỡng mang màu sắc huyền bí trên sông nước được tổ chức hàng năm nhằm cầu cho mưa thuận gió ḥa, trời yên biển lặng, được mùa tôm cá cho những chuyến biển b́nh yên, cầu cho cuộc sống người dân no đủ và quốc thái dân an.

Trong không khí trang nghiêm của Lễ và sự náo nhiệt nô nức của ngày hội cầu mùa, giá trị văn hoá cổ truyền dân tộc càng được tôn vinh, nét đẹp truyền thống ở làng biển Nhân Trạch được lưu giữ. Lễ hội cầu mùa của ngư dân xă Nhân Trạch gồm có các hoạt động chính như: múa hoa đăng, múa quạt, múa chèo cạn, bơi trải và tổ chức cho các ḍng họ tế lễ.

Biển b́nh yên, ḷng người b́nh yên, lễ hội cầu mùa như động lực tăng thêm t́nh yêu quê hương, yêu lao động của bà con ngư dân. Lễ hội cầu mùa là nét chấm phá độc đáo mang tính nhân văn cao đẹp, đă lưu giữ trong đời sống văn hoá tâm linh của người dân làng nghề sông nước. (internet)

HỘI LÀNG CHÀI TRÊN SÔNG GIANH

Hội làng chài trên sông Gianh: Trên lưu vực phía nam cửa lạch sông Gianh, có một làng vạn chài mà đại đa số vốn gốc từ các làng Xuân Hồi, huyện Lệ Thủy và vùng “Hạ Vực Tṛn chí Rọn Giang, hói mẹ hói con vọng ư địa phận”, di cư đến.

Họ đến đây cùng với con cháu trên những chiếc thuyền câu vừa là phương tiện hành nghề sinh sống, vừa là nhà ở cho gia đ́nh.

Những chiếc “nhà thuyền” tuy bé nhỏ, nhưng cũng đủ:

“Đủ tranh đủ tre
Chỉ thiếu hai hè
Đủ giường đủ chiếu
Chỉ thiếu màn the
Đủ dè đủ gót
Đủ thung đủ che
Đủ bàn thờ, chiếu trải
Chỉ thiếu sậy gụ tủ chè...”


Những vạn chài du canh du cư này tuy phân tán rất rộng nhưng hội tụ cũng rất nhanh. Sự phân tán hay hội tụ của họ tùy theo lịch tŕnh con nước, tùy theo từng nghề nghiệp một ở từng khúc sông, khúc hói nào đó, cũng tùy theo thời tiết mùa vụ. Bời lẽ, mỗi loại cá chực ăn mồi vào một lúc nào đó nhất định trong khoảnh khắc trăng, nước nào đó, mùa hè khác với mùa đông, tháng này ngày nước triều lên xuống khác với tháng trước v.v... Cho nên thời gian nhàn rỗi để gặp nhau không nhất định được. Sự hội tụ hay phân tán của người vạn chài cũng c̣n tùy thuộc mỗi “lối sống” của mỗi loại cá.

Và, người vạn chài làm nghề theo đuôi con cá trên sông hói không đủ sức để sắm nhiều thứ chài lưới cho mọi thức cá để cùng nhau hàng loạt câu kéo, cùng nhau hàng loạt vại chài, để rồi cùng nhau nghỉ ngơi một lúc, hội làng với nhau một lục. Mỗi người một cảnh: người nghỉ, kẻ làm. Khi tụ, khi tán là vậy.

Người làm nghề câu, nhất là nghề câu cần, là nghề khó kiếm ăn nhất, nghèo cực nhất, mặc dầu nghề này cần rất ít vốn, chỉ vài cái cần câu, vài cái ống câu, một số lưỡi câu tự tạo thế là đủ vốn xuất nghề. Nhưng không dễ ǵ câu được nhiều cá, nên đời sống rất khó khăn.

Trong khi đó, với nghề câu vàn, c̣n gọi là nghề bủa câu th́ vàn câu càng dài, móc được nhiều lưỡi câu một lúc và nhiều con cá cắn mồi cùng một lúc, hoặc như kéo lưới cũng vậy, lưới càng dài, càng rộng th́ vây được diện rộng nhiều loại, nhiều con, nhiều loại cá sẽ bị mắc lưới một lúc. Nghề chài cũng vậy, chỉ cần nắm được luồng cá bất kỳ, ăn ở đâu, nhử mồi cho chúng tập trung, rồi bất th́nh ĺnh tung chài ra chụp...

Riêng với nghề câu cần th́ phải có cách “mời cá” ăn mồi, phải có cách “gợi thèm” cho cá cắn câu và khó nhất khi cá đă cắn câu rồi mà không “cao tay nghề” cũng mất mồi không được ǵ. Nó đ̣i hỏi người câu phải tùy mỗi “đối tượng” mà lựa chọn con mồi, v́ một thứ cá có sở thích khác nhau, đến cả thời tiết cũng thay đổi “khẩu vị”.

Cho nên, người làm nghề câu cần luôn luôn làm ăn “riêng lẻ”, không thể cụm lại để cùng làm cùng hưởng được.

Chúng ta thấy, mỗi thuyền câu, h́nh như họ sống độc lập, “mỗi người một phương trời, một con thuyền, một mái chèo, một cần câu, một bếp lửa” bập bùng đó đây khắp vùng sông nước... Thế nhưng, đôi khi, trên những băi vắng cồn hoang, có hàng chục, có khi năm ba chục chiếc “nhà thuyền” tụ họp thành xóm làng, một thứ làng xóm thầm lặng, yên ấm không như các cuộc họp làng trên đất, luôn rầm rộ, ồn ào tiếng trống, tiếng đánh mơ, tiếng người kêu kẻ gọi, tiếng người đi kẻ chạy... Làng chài tự phân, rồi tự nhập...

Ngày xưa, khi chưa có đất định cư, cuộc sống người vạn chài ở phía bờ nam cửa lạch sông Gianh c̣n “lênh đênh mạn thuyền” nhưng không v́ thế mà quên gốc rễ của cha ông, nên cứ đến ngày giỗ tổ khai canh làng Xuân Hồi vào dịp đầu năm, tất cả mọi người đều trở về làng, viếng thăm mồ mả; thắp hương cầu nguyện tổ tiên, nộp tiền công quỹ gia tộc, rồi lại mỗi người một phương trời...

Rơ ràng, con chim kia bay măi cũng trở về rừng về cội, con cá nọ bơi hoài cũng về nguồn về vịnh! Cho nên người Quảng B́nh trước đây, mỗi khi xa nhà, xa quê, làm ăn nơi xứ lạ đất người, hễ nh́n gặp những chiếc thuyền câu trên sông hói, đều thấy buồn, chạnh nhớ đến quê hương xứ sở? Đêm đêm, những ngọn lửa thuyền chài lại gợi nên những kỷ niệm cũ nơi chôn rau cắt rốn, nơi cội nguồn gốc rễ...

Từ những ngọn lửa thuyền chài, người xa quê c̣n liên tưởng đến ngọn lửa lập ḷe trên băi biển sau những trận băo vừa hạ cơn sóng, ngọn lửa của những người thân đi t́m người bị nạn, đốt lên đây đó, vừa để sưởi đêm lạnh vừa làm tín hiệu cho ai đó, may ra c̣n ngất ngưởng, trôi nổi giữa trùng dương, biết bờ biết băi mà cố gắng hướng về...

Cho đến khi người vạn chài trên sông Gianh được cá voi; vua ban sắc phong thần cá là “Nam Hải Thượng Đẳng Thần” và được ban cấp phần đất hoàng sa bạch thổ của làng Bồ Khê làm nơi định cư, xây đền thờ cá voi, người vạn chài phía nam cửa lạch sông Gianh mới h́nh thành ra làng xóm, gọi là “ấp Thanh Hà” (nay thuộc xă Thanh Trạch)

Từ đó, người vạn chài nơi đây mới chấm dứt cuộc đời trôi nổi trên sông nước, tránh được t́nh trạng “sinh nhai ư giang thượng, thác táng ư giang tâm” (làm ăn sinh sống trên mặt sông, chết chôn vào ḷng sông).

Sở dĩ có thành ngữ buồn thảm này là do thuở xưa ấy, người vạn chài là dân du canh du cư, trú ngụ rày đây mai đó trên khắp sông nước, làng xóm của họ khi tụ khi tán, không có một nơi định cư cơ bản.

Mặc dầu có láng xóm thôn ấp mới rồi, nhưng theo lệ tục của làng gốc cũ cứ rằm tháng Giêng, vạn chài bờ nam cửa lạch Sông Gianh vẫn “họp làng” như ở làng chính cũ Xuân Hồi, thu gom tiền đóng góp, vào quỹ gia tộc đem về Xuân Hồi, để tỏ rằng, người vạn chài này không bao giờ quên gốc rễ, đinh ninh một dạ “ly hương bất ly tổ” (xa làng mà không rời họ).

Cuộc hội làng này c̣n bàn đến lễ cúng rằm tháng Ba tới mà người vạn chài ở đây xem như ngày rằm tháng 7 xá tội vong nhân.

Khác với các làng nông nghiệp, ngày rằm tháng 4 chỉ cúng hoa, quả chè xôi, nghĩa là cúng chay theo phép nhà Phật, không sát sinh mà c̣n phải phóng sinh, ngày rằm tháng 3 người vạn chài Sông Gianh gốc Xuân Hồi lại cúng cả heo, cả xôi, cả cá, phối hợp với cả hoa quả, bánh kẹo.

Đến ngày ấy, tất cả thuyền chài của mọi “hộ nhà thuyền” cùng với thuyền câu biển, đều tập hợp lại, kết thành một mảng bè bằng thuyền khổng lồ, neo đậu giữa ḍng sông trước cửa lạch, trên lát ván làm mặt bằng để đặt hương án, bàn thờ cúng tế và cũng để làm nơi hội họp giống như ở chốn “đ́nh trung”.

Trong thời gian như vậy, những “hộ thuyền” dùng mui thuyền làm lán trại tạm sống trên băi sông, họp lại cũng như một “xóm chài”, một xóm ấp của làng mạc trong vùng. Đó là tiền thân của làng “Thanh Hà”, trước khi được cá voi, trước khi Vua cấp đất, một làng chài vừa có nhà cửa xóm thôn trên “cát vàng đất trắng” (hoàng sa bạch thổ) vừa có “vạn chài” (nhà thuyền) trên ḍng Sông Gianh (phía bờ nam).

Cái đáng ngạc nhiên mà cái cũng b́nh thường nhất là trong nội dung “ngôi đ́nh thuyền nổi” giữa cửa lạch Sông Gianh này cũng có đủ cờ, đủ quạt, đủ tàn, đủ lọng, đủ chuông, đủ trống, đủ áo mũ cân đai cho các vị chủ tế, bài tế, cùng đủ văn, đủ sớ, đủ lễ, đủ nhạc, chẳng khác ǵ các lễ hội, các buổi Xuân Thủ Kỳ Yên của các láng xóm trên đất liền.

Lệ làng vạn chài Thanh Hà quy định: Hội làng tháng 3 cúng tế trong hai đêm một ngày.

Đêm đầu và nửa ngày hôm sau là lễ giỗ tổ khai canh được tôn thờ làm thần Thành Hoàng bổn thổ. Chiều ngày đó chuẩn bị vào lễ đám chay tế cô hồn và suốt đêm là lễ siêu độ cô hồn do các bậc tu hành trong các chùa ở Bồ Khê xă được rước mời. Lễ siêu độ, chủ yếu là trong kinh Phật để cầu hồn, sau đó làm lễ phóng sinh, phóng đăng (thả chim, cá, thả đèn)

Cái đẹp và cái riêng biệt của hội làng này là chỉ người của vạn chài tham dự và buổi lễ tổ chức ngay giữa ḍng sông, không có người trên đất liền đến nhập hội, nhưng lại rất đông thuyền bè của các làng vạn chài trên lưu vực sông Gianh tham dự, cho nên, nó gần như một buổi họp thuyền cả lưu vực sông Gianh!

Người các làng vạn chài cũng như người vạn chài Xuân Hồi đến “hội làng” như vậy là đến để cầu nguyện, để cúng lạy. Cái khác biệt của hội làng trên sông Gianh là chỗ này. Lễ mà không có hội, chứ không phải như các lễ hội khác. Thế nhưng, người ta vẫn đặt cho nó một cái tên là “Hội Làng”, với nghĩa thực của nó là “họp làng” nhưng là họp với tính chất vui vẻ, tự nguyện chứ không phải những cuộc họp làng theo ư nghĩa hành chánh.

Cứ tưởng tượng, giữa một vùng trời biển mênh mông, đêm đen đầy sao, sông Gianh bát ngát, bốn bề yên lặng, có một cụm thuyền với bao nhiêu đèn đuốc đủ màu sắc, với tiếng chiêng, tiếng mơ, tiếng kèn, tiếng trống, đồng vọng, ngân vang, ḥa tan vào không trung sông nước, sẽ gợi lên cho con người biết bao suy ngẫm...

Và từ giữa ḍng sông, trên mặt biển bao la, những chiếc đèn phóng đăng bập bềnh nhấp nhô le lói, như những con đom đóm trong bầu trời, càng làm cho những người chung quanh hiện đang ngắm cảnh, không khỏi nhớ đến những linh hồn người “tử nạn” từ ngoài cơi trùng dương qua các trận băo bất ngờ…

Xót t́nh đồng nghiệp “sinh ư giang thượng, thác táng ư giang tâm”, người đi dự hội làng trên Sông Gianh không cầu mong sự vui chơi hội hè mà chỉ mong gửi chút ḷng ḿnh vào những lời cầu nguyện, vào những “cây đèn, cây hương, tờ vàng mă” trôi nổi trên ḍng nước đi ra biển Đông vô tận...

Và cũng v́ vậy mà t́nh quê, t́nh bà con họ tộc làng xóm cứ vương vấn, đeo đẳng lấy tâm hồn con người, qua âm thanh của tiếng chuông, tiếng mơ trong khoảng vắng đêm trường mà họ gặp khắp nơi trong cuộc sống đó đây! (internet)

LỄ HỘI RẰM THÁNG GIÊNG

Lễ hội rằm tháng giêng ở phường Hải Đ́nh: Rằm tháng giêng âm lịch c̣n gọi là Tết Nguyên Tiêu, là một trong những lễ hôị đầu xuân mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt.Vào dịp này, nhiều địa phương trong tỉnh đă tổ chức một số hoạt động mang ư nghĩa văn hóa tinh thần sôi nổi và phong phú.

Tại phường Hải Đ́nh, thành phố Đồng Hới, lễ dâng hương nhân dịp Tết Nguyên Tiêu để cầu an một năm mới tốt lành, mong mưa thuận gió ḥa, làm ăn phát đạt, cùng nhau đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới đă được tổ chức vào tối  28.2.2010 (ngày rằm tháng giêng).Từ chập tối, các cụ ông, cụ bà và con cháu cùng hàng trăm cư dân sinh sống tại địa bàn đă tề tựu đông đủ tại nhà truyền thống của thành phố - cây đa chùa Ông, chốn linh thiêng nhất của người dân Đồng Hới, một chứng tích c̣n lại sau chiến tranh để dự lễ. Các đồng chí lănh đạo, các phường bạn cùng đến thắp hương, dự lễ với người dân địa phương. Nét mới của lễ hội rằm tháng giêng năm nay của phường Hải Đ́nh, ngoài phần lễ tâm linh trang trọng c̣n có phần hội với các hoạt động múa lân, đàn và hát dân ca với sự tham gia biểu diễn của chi hội người cao tuổi, hội phụ nữ, đoàn thanh niên và các tổ chức đoàn thể trong phường. Đây là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc có từ làng Đồng Đ́nh-Đồng Hải trước đây. Đây cũng chính là nét đẹp văn hóa cần được giữ ǵn của người dân địa phương. (internet)
 

LỄ CẦU NGƯ

Lễ Cầu ngư của bà con ngư dân phường Hải Thành: Lễ Cầu ngư được bắt đầu với nghi thức Lễ bạt Sơn Thủy, Lễ đội cầu tại Nghĩa trang Hải Thành và trên sông Nhật Lệ để rước vong linh những anh hùng liệt sỹ, những người chết trên biển do phong ba, băo táp... cùng về dự lễ. Tiếp đó, các đội múa bông, chèo cạn của địa phương đă thực hiện nghi thức tế thần và cầu mong trời yên biển lặng, mưa thuận gió ḥa, mùa màng bội thu. Tối cùng ngày, bà con đă tiến hành thả đèn hoa đăng trên sông Nhật Lệ.
Lễ Cầu ngư là lễ hội văn hóa truyền thống có từ lâu đời của bà con ngư dân phường Hải Thành nói riêng, các địa phương vùng biển nói chung. Lễ Cầu ngư thể hiện sự tôn vinh nghề nghiệp cũng như khát vọng b́nh yên trong lao động sản xuất và đời sống của bà con ngư dân. (internet)

LỄ HỘI ĐẬP TRỐNG CỦA NGƯỜI MA COONG

Đập Trống là một lễ hội lớn của người Ma Coong mỗi năm được tổ chức một lần vào ngày 16 tháng giêng âm lịch. Theo các nhà dân tộc học th́ người Ma Coong chọn địa bàn cư trú là Tây Quảng B́nh và để đón chào mùa trăng tṛn đầu tiên trong năm họ phải tổ chức một lễ hội thật tưng bừng.

Địa điểm tổ chức lễ hội là bản Cà Rọng, xă Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, ngay từ sáng ngày 16 người dân từ các bản gần xa đă lũ lượt kéo đến thậm chí từ các bản làng người Ma Coong bên kia biên giới Việt - Lào cũng đến chung vui. Thanh niên trai trẻ sẽ cùng nhau dựng lên một cái sạp tre làm nơi đặt mâm cổ cúng lễ. Những người phụ nữ Ma Coong nhận nhiệm vụ tổ chức mâm cỗ cúng Giàng, cỗ phải có đủ gà, rượu cần, cá, xôi nếp, ngọn cây mây và khúc thân cây đoác. Theo thông lệ của làng th́ cá phải được đánh bắt từ khúc suối cấm Aky. Vào khoảng tháng 5 dân bản ngăn con suối Aky từ bản Rào Bụt đến bản Nồm và được quản lư nghiêm ngặt nếu ai vào đó đánh cá th́ bị phạt rất nặng, khúc suối này chỉ được đánh bắt cá tự do sau khi lễ hội đập trống diễn ra.

Chiếc trống hội sẽ được các già làng thay da bịt mặt trống, đó là những tấm da trâu thật đẹp được phơi trên gác bếp từ trước đó. Người Ma Coong không bịt trống như người dưới xuôi để mặt trống căng phẳng. Họ dùng sợi roi mây rừng xâu chéo với nhau, rồi lấy những nêm tre nêm chặt lại, kéo cho mặt trống có h́nh như quả cầu gai....

Đến khi trời tối, trống sẽ được treo lên và lễ hội sẽ bắt đầu. Già làng bản Cà Rọng sẽ đốt những que sáp ong cháy sáng và khấn mời Giàng về ăn cỗ, phù hộ cho người Ma Coong được mùa, được cái ăn, sinh sôi như cây trên rừng, dẻo dai như suối trước bản.

Sau khi khấn xong th́ tuyên bố hội đập trống bắt đầu, dân bản sẽ ùa vào tranh dùi đập trống. Người đánh trống cứ đánh, người chờ đến lượt ḿnh th́ đi quanh đống lửa múa, hát, ḷng ṿng đến bên hũ rượu rồi sà xuống vít cần. Lễ hội kéo dài cho đến khi trống hội được đánh vỡ toan trước khi trời sáng v́ người Ma Coong quan niệm rằng năm nào khi trời sáng mà mặt trống chưa vỡ th́ coi như năm đó sẽ mất mùa đói kém. Ngược lại trống đánh vang to và nứt vỡ sớm hoa màu sẽ được mùa, gái trai sẽ dắt tay nhau vào rừng ḥ hẹn. Những "người của ngày xưa" chưa đến được với nhau th́ sẽ t́m nhau. Những người đang yêu nhau đợi lễ hội này để đốt cháy t́nh yêu...

Hàng năm lễ hội đều diễn ra như thế với một không khí tươi vui náo nức, người dân Ma Coong từ khắp đều quần tụ về đón chào một mùa xuân mới đầy an lành, hạnh phúc.

TR̉ CHƠI CƯỚP CÙ

Cướp cù: Ở trên vùng đất hai huyện cũng như nhiều vùng thuộc đôi bờ sông Gianh, c̣n lưu lại nhiều môn thể thao dân tộc, đồng thời cũng là những tṛ chơi trong ngày tết và các lễ hội, tiêu biểu là môn cướp cù.

Không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng cướp cù thường diễn ra vào sáng mồng 3 tết hàng năm. Sân cù là một đám đất đă nhổ sạch mạ trước mặt đ́nh làng. Chiều dài của sân khoảng 80 mét, chiều rộng khoảng 50 mét. Ở hai phía cuối sân trồng hai cây tre cao to c̣n để lại vài cành lá lơ thơ, trên ngọn cây tre có buộc một dải vải điều để làm rơ mục tiêu ném cù. Cù thường là quả bưởi. Mục tiêu ném cù là lỗ rọ thường đan bằng tre có đường kính gấp đôi đường kính quả cù.

Trai chơi cù là những người khỏe mạnh, nhanh nhẹn và tháo vát. Thông thường mỗi phe chơi có số lượng từ 20 đến 30 mươi chàng trai dũng cảm.

Ngày xưa, cứ mỗi dịp đầu năm, các vị kỳ hào, hương lư tề tựu đông đủ để tế thần linh, cùng mong muốn quả cù góp vui cùng dân làng trong ngày tết, mong muốn dân làng có cuộc sống b́nh yên và thịnh đạt. Sau phần nghi lễ, hai người cầm lọng hai bên bê ra sân đặt lên mâm cù năm quả có phủ vải điều. Các đối thủ hai đội xếp hàng dọc đối mặt với nhau. Sau loạt đại cổ, tiểu cổ, vị trọng tài cầm một quả cù bước tới khai mạc trận đấu trước sự chuẩn bị sẵn sàng của hai đội. Tiếp đến, cùng với tiếng chiêng khua, tiếng dục rộn ràng, lệnh lung cù được khởi phát. Đấu thủ hai bên thi tài tranh nhau ném quả cù vào rọ. Cuộc chơi tiếp diễn và lặp lại từng đợt cho đến khi hết thời gian thi đấu (thường là một giờ cho hai hiệp chơi).

Người xem đứng chật ních cả bốn phía sân không ngớt reo ḥ cổ vũ, át cả tiếng chiêng, tiếng trống, mũ nón tung lên nhấp nhô như sóng lượn. Già trẻ gái trai như bị quả cù thu hút, chạy theo hướng quả cù lao đi vun vút như muốn tiếp sức cho đội nhà được thắng cuộc để cùng hưởng một năm tốt lành phát đạt.

Cuối cùng, ban tổ chức tính số lần quả cù lọt rọ của mỗi bên để phân định thắng thua. Bên thắng trận sẽ được một bữa liên hoan no say. Hồi ấy các làng thường tặng cho đội thắng của ḿnh một con lợn béo trên 50 kg. Tṛ chơi nào chả là tṛ chơi nhưng điều đáng quư ở môn cướp cù là tinh thần hữu nghị, thân ái diễn ra trong suốt quá tŕnh thi đấu.

Có lẽ đây là một môn thể thao mà quân lính ngày xưa đă sử dụng để rèn luyện. Theo "Phủ biên tạp lục’’ của Lê Quư Đôn th́: ’’Trong một đợt hành chinh vào phía Nam, vua Lê Thánh Tông đă dừng chân ở tổng An Lai (thuộc xă Xuân Thủy, Lệ Thủy ngày nay), nhà vua cho dựng chùa phật ngồi, có người gọi là phật mọc ở làng Quảng Cư. Tại đây và cồn vật làng Phan Xá, trong quá tŕnh tập luyện, quân lính đă thường xuyên chơi môn cướp cù. (internet)

 

Nguồn: saigontoserco

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Kỹ Thuật Truy Tầm

Hoàng Vân

Sưu tầm Nhạc Dân Ca

Julia Nguyễn
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/24/16