Lễ hội 
												Đống Đa: 
												
												 
												Đây là lễ hội lớn nhất trong 
												nước để tưởng nhớ các thủ lĩnh 
												của phong trào Tây Sơn, đặc biệt 
												là người anh hùng áo vải Quang 
												Trung và kỷ niệm chiến thắng 
												Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789), 
												đánh thắng 29 vạn quân Thanh xâm 
												lược. Lễ hội được tổ chức trọng 
												thể, hoành tráng vào ngày mùng 5 
												tháng giêng Âm lịch hàng năm, 
												Ngoài nghi lễ truyền thống, 
												trong lễ hội c̣n tổ chức nhiều 
												hoạt động văn hóa dân gian như: 
												Biểu diễn vơ thuật Tây Sơn, 
												trống trận Tây Sơn, đua thuyền, 
												các tṛ chơi dân gian, hát tuồng... 
												thu hút hàng vạn người từ khắp 
												mọi miền đất nước tham dự.
												
Lễ
												hội Đống Đa được tổ chức 
												từ năm 1960, địa điểm hành 
												lễ là Điện thờ Tam Kiệt 
												Tây Sơn, tại làng Kiên Mỹ (đất 
												Tây Sơn cũ) xă B́nh Thành quận 
												B́nh Khê (nay là huyện Tây Sơn) 
												vào ngày mồng 5 tết. Đây là 
												lễ hội truyền thống lớn 
												nhất tỉnh B́nh Định. 
												Lần giở lại trang sử oai hùng 
												của dân tộc, cuối năm 1788 vua 
												Kiền Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ 
												Nghị đem 20 vạn quân sang chiếm 
												nước ta. Trước khí thế 
												mạnh như vũ băo của giặc, ngày 
												21 tháng 11 năm Mậu Thân (18-12-1788) 
												Tư mă Ngô Văn Sở nghe theo lời 
												bàn của Ngô Thời Nhậm, cho 
												chuyển quân từ Thăng Long về Tam 
												Điệp để bảo toàn lực lượng. 
												
													
													Hội tết Đống Đa – Tây Sơn – 
													B́nh Định là một trong những 
													lễ hội lớn nhất cả nước 
													những ngày đầu xuân
												
												
													
													
													Hằng năm vào ngày mùng 4 và 
													mùng 5 tết âm lịch người dân 
													B́nh Định và Du khách cả 
													nước lại náo nức du xuân lễ 
													hội tết Đống Đa tại Bảo tàng 
													Quang Trung, thị trấn Phú 
													Phong - Tây Sơn - B́nh Định 
													để tưởng nhớ tới công tích 
													lẫy lừng các thủ lĩnh của 
													phong trào Tây Sơn, đặc biệt 
													là người anh hùng áo vải 
													Quang Trung – Nguyễn Huệ và 
													kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi 
													– Đống Đa, đánh thắng 29 vạn 
													quân Thanh xâm lược.
												
													
													 
													
													
													Hội tết Đống Đa – Tây Sơn – 
													B́nh Định là một trong những 
													lễ hội lớn nhất cả nước 
													những ngày đầu xuân. Lễ hội 
													được tổ chức trọng thể, 
													hoành tráng từ ngày mùng 4 
													đến ngày mùng 5 tháng giêng 
													âm lịch. Ngoài nghi lễ 
													truyền thống, lễ hội c̣n tổ 
													chức nhiều hoạt động văn hóa 
													dân gian như biểu diễn vơ 
													thuật Tây Sơn, trống trận 
													Tây Sơn, đua thuyền, tṛ 
													chơi dân gian, hát tuồng... 
													diễn lại trận đánh lịch sử 
													với những y phục, voi trận 
													như ngày xưa vua Quang Trung 
													ra trận... thu hút đông đảo 
													khách nước ngoài, nhân dân 
													cả nước và đặc biệt là người 
													dân đất vơ tham dự. 
													         
													
													
													Chương tŕnh tế lễ Đống Đa 
													diễn ra từ trưa mồng 4 tết 
													với nhiều nghi lễ cổ truyền 
													đặc sắc được tổ chức tại 
													điện Tây Sơn. Lễ tế được tổ 
													chức tôn nghiêm, cả khu vực 
													rộng lớn, cờ lọng, nghi 
													trượng rợp trời, chiêng 
													trống rền vang... Người dự 
													lễ như cảm thấy ḷng ḿnh 
													ḥa nhập vào hồn thiêng sông 
													núi địa linh nhân kiệt.
													
													
													Chương tŕnh hội ngày mồng 5 
													tuy có thay đổi hằng năm 
													nhưng các mục chính th́ năm 
													nào cũng có, đó là diễn văn 
													ôn lại lịch sử Tây Sơn với 
													cuộc đại phá quân Thanh, 
													biểu diễn vơ thuật, trống 
													trận Tây Sơn và thao diễn 
													trận pháp. Tiết mục vơ thuật 
													Tây Sơn được các vơ sư, vơ 
													sĩ, nghệ nhân tên tuổi hàng 
													đầu B́nh Định biểu diễn các 
													bài quyền truyền thống nổi 
													tiếng của nhà Tây Sơn  như: 
													 Lăo mai độc thọ, Ngọc trản 
													quyền, Hùng kê quyền; các 
													bài vơ sử dụng binh khí: Lôi 
													long đao, Song phượng kiếm, 
													Tuyết hoa song kiếm và Lôi 
													phong tuỳ h́nh kiếm, hay các 
													bài roi như Roi Thái sơn, 
													Roi Hắc đảnh ô sơn … được 
													người xem tán thưởng nhiệt 
													liệt.         
													
													
													Tiết mục nhạc vơ Tây Sơn là 
													môn nghệ thuật độc đáo của 
													tỉnh B́nh Định, người biểu 
													diễn vừa phải có tâm hồn 
													nghệ sĩ, vừa là bậc vơ sĩ 
													siêu đẳng và luyện đôi tay 
													thần diệu để tác dụng lên 
													ḷng trống, vành trống và 
													thân trống bằng cả hai bàn 
													tay, cổ tay, khuỷu tay, cánh 
													tay, tiếp xúc vào một bộ 
													trống gồm 12 chiếc lớn nhỏ 
													khác nhau gọi là "Song thủ 
													đả thập nhị cổ", tạo nên 
													những âm thanh hùng tráng 
													khác lạ khiến người xem như 
													bị lôi cuốn, thúc giục. Tiết 
													mục biểu diễn chiến trận 
													Đống Đa lại càng hào hứng và 
													hấp dẫn hơn nữa, được tổ 
													chức trên địa thế qui mô, 
													dàn dựng công phu, tập dượt 
													công phu, có cả ngàn người 
													thao diễn với cờ xí, chiêng 
													trống, sắc phục, đồn lũy... 
													y như thật, có năm c̣n có 
													bốn, năm con voi trận tham 
													gia.          
													
													
													Màn biểu diễn Nhạc vơ Tây 
													Sơn làm cho người xem dễ 
													dàng cảm nhận những tiếng 
													gươm khua, tiếng binh khí, 
													tiếng ḥ reo của quân sĩ, 
													tiếng súng nổ, tiếng voi gầm, 
													ngựa hí hoà lẫn vào tiếng 
													trống. Người xem có cảm giác 
													như đang đứng giữa trận 
													tuyến, không gian như vang 
													vọng hồn thiêng sông núi, và 
													được trở về với lịch sử, 
													chứng kiến một thế trận thần 
													tốc, táo bạo. Tiếng trống 
													như giục giă, như thôi thúc, 
													người xem có thể bị kích 
													động và sẵn sàng xông lên 
													sống mái.        
													
													
													Ngày nay, đi dự lễ hội tết 
													Đống Đa đối với người dân 
													đất vơ đă trở thành niềm tự 
													hào và cũng là một nhu cầu 
													tinh thần không thể thiếu 
													được trong những ngày đầu 
													xuân.
 
												
												
												Lễ hội Chợ G̣: 
												
												
												
HỘI 
												TẾT CHỢ G̉: Người ta quen gọi là 
												Chợ G̣, thật ra chẳng thấy chợ 
												búa đâu cả. Không một túp lều, 
												các ngày trong tháng không thấy 
												một ngày nào nhóm chơ, dù chỉ 
												vài mươi người, mua bán nho nhỏ 
												như chợ xổm cũng không có. Nơi 
												đó chỉ là một băi đất bằng phẳng, 
												cao ráo, rộng chừng hai mẫu tây, 
												thời Minh Mạng thuộc thôn Phong 
												Đăng tổng Tuy Hà, huyện Tuy 
												Phước phủ An Nhơn tỉnh B́nh Định, 
												nay là thôn Phong Thạnh thuộc 
												thị trấn Tuy Phước. Nơi đây, địa 
												thế hiểm yếu, phong cảnh lại hữu 
												t́nh; phía đông và nam có núi 
												Trường Úc ôm choàng, phía tây 
												giáp quốc lộ 1 cũ, phía bắc có 
												nhánh sông Tọc, thuộc nguồn Hà 
												Thanh, chảy qua với bờ cao dốc, 
												có hàng cây san sát ḷa x̣a soi 
												bóng. Nếu không muốn nói là đất 
												thiêng th́ ít ra trên thực tế 
												nơi đây là băi đất bất khả xâm 
												phạm v́ tuy gần khu dân cư đông 
												đúc nhưng xưa nay chưa ai lấn 
												chiếm cất nhà hay trồng tỉa hoa 
												màu
												Tương tuyền thời Tây Sơn, nơi 
												đây dùng làm chỗ tập trận của 
												quân đội. Bộ binh đóng đồn trên 
												núi Trường Úc, thủy quân từ đầm 
												Thị Nại vào cửa Làng Sông rồi 
												ngược ḍng sông Tọc đổ bộ lên 
												Trường Úc, hai bên thủy bộ giáp 
												chiến. Để khuây khỏa nỗi nhớ nhà 
												trong dịp tết, các tướng Tây Sơn 
												tổ chức cuộc vui ngay trên băi 
												thao trường vào sáng mồng 1 và 
												mồng 2 tết, nhưng khi trời vừa 
												xế bóng thân nhân phải ra về để 
												binh sĩ chuẩn bị canh pḥng 
												nghiêm nhặt về đêm. V́ vậy, hàng 
												năm các gia đ́nh binh sĩ theo lệ 
												đến nơi đây thăm chồng con. Dân 
												địa phương mang hoa quả, thức ăn, 
												nước uống ra bán, lâu năm thành 
												lệ. Khi quân Tây Sơn tan ră, nơi 
												đây trở thành Hội Tết Chợ G̣, 
												mỗi năm chỉ hội hai ngày mồng 1 
												và mồng 2 tháng giêng và cũng 
												quen lệ tan chợ vào lúc xế trưa.
												
												Chợ G̣ có tính cách hội vui xuân 
												dân gian hơn là phiên chợ. Từ 
												người bán đến khách hàng đều mặc 
												quần áo mới, nói cười vui vẻ, 
												mặt tươi như hoa, các bà các cô 
												phấn son trang sức lộng lẫy như 
												dự lễ cưới. Từ mờ sáng ngày đầu 
												năm chợ đă nhóm, ai đến trước 
												bày hàng trước, ai đến sau kế 
												tiếp thành dăy. Không ai đứng ra 
												xếp đặt, tổ chức thế mà vẫn trật 
												tự, không hề tranh giành bán 
												buôn theo lối kẻ chợ thông 
												thường. Người bán là những dân 
												cư quanh vùng thu góp trong vườn 
												mớ trái cây, gánh rau cải, vài 
												buồng cau, vài xấp trầu họ đem 
												đến bán lấy hên đầu năm. Người 
												mua không phải là thiếu thức ăn 
												nhưng muốn đem về một cái lộc 
												đầu năm, nhất là gian hàng trầu 
												cau, các cô thường mua cầu may 
												cho năm mới gặp duyên thắm t́nh 
												nồng. 
												Vui vẻ nhất là các gian hàng 
												pháo, bán đủ loại nào pháo tre, 
												pháo tống, pháo điển, pháo chuột, 
												pháo dây, pháo thăng thiên, pháo 
												bông... Đó đây, giọng lái buông 
												chào hàng ngân nga câu vè (3) 
												theo điệu bài cḥi: 
												
												Mời chư vị giai nhần tài 
												tử 
												Tới đây nghe tôi thử pháo tre
												
												Của bán ra không phải nói khoe
												
												Thời thực vật sắm vừa túc dụng
												
												Có pháo nhiều đốt mới vui t́nh
												
												Từ cựu thời bộc trước nhi thinh
												
												Có pháo mới văn minh xuân nhựt
												
												Dưới con cháu cũng vui cũng ức
												
												Trên ông bà khỏi bực khỏi phiền
												
												Nếu như mà cứ giữ tiếc tiền 
												Lấy ǵ đặng minh niên hỉ hả...
												
												
												Năm mới, người ta kiêng cữ nhất 
												là mua phải pháo điếc, đốt không 
												nổ, gây xui xẻo cho cả năm. Khai 
												thác tâm lư ấy, người bán pháo 
												cao giọng quảng cáo hàng:... 
												
												Mua pháo này về đốt 
												Vốn tôi không nói tốt 
												Hay thật t́nh có một ḿnh tôi
												
												Nhiều người bán xảo làm mồi 
												Đốt đây khá về rồi lại dở 
												Có kẻ làm kêu cũng đỡ 
												Vấn nhiều tay tôi sợ không đều
												
												Của bán ra là biết bao nhiêu 
												Một ḿnh vấn nên kêu đều đặn 
												Mười như chục tiếng kêu đúng đắn
												
												Đốt cả trăm cũng chẳng điếc câm
												
												Tiếng nổ lên chuyển động sơn lâm
												
												Như đại bác vang gầm trời đất
												
												Hễ đốt th́ xác tan bay mất 
												Không khi nào gió phất ngún hừng
												
												Của tôi làm tôi đă biết chừng
												
												Xin quí vị mua đừng có ngại
												
												
												Các gian hàng bán đồ chơi trẻ em 
												cũng vui nhộn không kém. Đặc 
												biệt nhất, những sản phẩm làm 
												bằng vật liệu địa phương, thuần 
												túy Việt Nam như gà cồ chút chít 
												nặn bằng đất sét, rỗng ruột, sơn 
												phết xanh đỏ, có lỗ thổi ra 
												tiếng kêu o... o..; trống rung (trống 
												bỏi) thành và cán bằng tre phất 
												bong bóng heo hay da ếch có tra 
												hai cây đính cục ch́ nhỏ mỗi lần 
												rung tạo âm thanh thật vui tai: 
												thằng nhào lộ; cối xay lúa; cối 
												giă gạo; tướng quân múa vơ đều 
												làm bằng tre và gỗ cây g̣n. Từ 
												cuối thập niên 60, có xen những 
												đồ chơi bằng nhựa hoặc bằng kim 
												loại như búp bê, xe tăng, tàu 
												bay, súng lục..., có lẽ v́ đắt 
												giá hay chưa quen với thị hiếu 
												nên ít thông dụng. 
												Những gian hàng thức ăn, nước 
												giải khát cũng góp mặt không kém. 
												Các món đặc sản địa phương được 
												khách hàng ưa thích như nem Chợ 
												Huyện của bảy Ù, chim mía ở Lộc 
												Lễ, rượu nếp và rượu gạo ở 
												Trường Thuế (dân chúng quen gọi 
												là Trường Thế) đă măi măi đi vào 
												ca dao của dân tộc: 
												
												Rượu ngon Trường Úc mê ly
												
												Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi không 
												đành 
												
												Đến với Chợ G̣ không những để ăn 
												uống, mua rau quả để lấy lộc, 
												mua pháo để lấy hên đâu năm, 
												hoặc để thưởng thức tài viết chữ 
												"phượng múa rồng bay" trên liễn 
												đối, mà đến với Chợ G̣ c̣n có đủ 
												các tṛ vui chơi mang màu sắc 
												dân gian như đánh bài cḥi, chơi 
												lô tô, giải đáp câu thai, đánh 
												cờ tướng, đá gà... Nếu ai nặng 
												máu đỏ đen th́ tha hồ sát phạt ở 
												các ṣng bài như xóc dĩa, bầu 
												cua tôm cá, x́ lác... nhưng phần 
												lớn họ đến đây để gặp gỡ bạn bè, 
												trao nhau những lời chúc tụng, 
												kéo nhau đi xem chợ và khi mặt 
												trời đứng bóng th́ chia tay ra 
												về. 
												Hội tết Chợ G̣ đơn giản chỉ có 
												thế nhưng rất vui, đậm đà t́nh 
												bạn, t́nh quê hương; năm nào bận 
												việc không đến được vẫn thấy 
												tiếc. V́ thế, từ sáng sớm đoạn 
												đường quốc lộ 1 cũ từ ngả tư Phủ 
												Mới đến ngả ba Chợ Dinh (khoảng 
												5 cây số) đông nghệt người đi, 
												xe chở hành khách không thể qua 
												lại được. Muốn đến Chợ G̣ phải 
												xuống xe, đi bộ vài cây số, có 
												thể dùng xe đạp hay xe gắn máy 
												đến gần địa điểm, rồi t́m chỗ 
												gửi xe an toàn, mới rảnh tay vào 
												cuộc vui xuân. (internet)
												
												
												
												Lễ hội Cầu Ngư:
												
 
												
												 
												Là một h́nh thức sinh hoạt văn 
												hóa tín ngưỡng phổ biến của cư 
												dân ven biển, hải đảo B́nh Định, 
												được tổ chức thường xuyên vào 
												mùa xuân và mua thu hàng năm. 
												Vào các ngày hội có đầy đủ kiệu 
												rước, đội trống chiên, ban nhạc, 
												đội chèo bả trạo, hát tuồng, 
												diễn xướng theo nghi lễ, thu hút 
												hàng ngh́n người tham dự
												Cầu Ngư là 
												lễ hội hàng năm của dân 
												chài chuyên nghề đánh bắt cá 
												biển. Làng Xương Lư, quen gọi là 
												Vũng Nồm (4) tổ chúc 
												lễ vào mồng 10 tháng 
												giêng âm lịch, c̣n làng Hưng 
												Lương (4) quen gọi là Vũng Bấc 
												lại chọn ngày mồng 6 tháng 3 âm 
												lịch và đây là 
												lễ hội lớn nhất trong năm 
												của hai làng này. 
												Buổi chiều trước ngày hành 
												lễ, tất cả dân chài, chỉ 
												trừ phự nữ đang có kinh nguyệt 
												không được bén mảng đến, c̣n bao 
												nhiêu đều phải có mặt tại lăng 
												thờ ông Nam Hải (cá voi) và đợi 
												quá nửa đêm, cuối giờ Tí đầu giờ 
												Sửu (1 giờ sáng) mới cữ hành 
												lễ. 
												Ban tế 
												lễ gồm vị chánh tế đứng 
												giữa chiếu tế trực diện với 
												chánh điện, vị bồi tế đứng sau 
												các một bước sải chân (khoảng 1 
												mét). Ngoài ra c̣n bốn học tṛ 
												gia lễ mang trống chiến (mặt 
												trống gần bằng trống chầu nhưng 
												thân trống ngắn bằng một phần ba), 
												từng cặp đối xứng đứng hầu hai 
												bên án trong và hai bên tiến 
												đường. Ban nhă nhạc gồm một 
												người đánh trống chầu đứng bên 
												tả và một người đánh chiêng đứng 
												bên hữu sân tế. 
												
Lễ vật gồm có ḅ, heo. Các 
												con vật chịu lễ bị trói chặt, 
												tắm rửa sạch sẽ, đật nằm trên 
												sạp trước sân tế. 
												Đứng đầu ban tổ chức là vị hương 
												lễ tuyên bố khai mạc, tức th́ ba 
												hồi chín tiếng trống chầu gióng 
												lên rồi đến ba hồi chín tiếng 
												chiêng vang dậy. Trên bàn thờ 
												hương trầm nghi ngút, tăng thêm 
												vẻ uy nghiêm. Bốn học tṛ gia lễ 
												vừa đi vừa đánh nhịp trống, từ 
												từ tiến vào vị trí đă định sẵn. 
												Rồi đến hai vị chánh tế và bồi 
												tế, mặc áo rộng xanh, đội mũ lễ, 
												đi giày hia, hai tay chắp lại, 
												cung kính tiến vào chiếu tế 
												trước chánh điện, theo nhịp 
												trống của bốn học tṛ lễ. 
												Các đồ tể mặc áo gọn gàng, buộc 
												thắt lưng đỏ, cầm dao phang bén 
												nhọn, đứng bên sạp đợi lệnh. Một 
												lần nữa ức và cổ con vật chịu lễ 
												được chùi sạch bằng khăn ướt và 
												lau lại bằng khăn khô, rối cắt 
												tiết, máu tươi được hứng vào 
												thau sạch, đem dâng tế Thủy thần.
												
												Bốn học tṛ gia lễ đồng loạt 
												xướng hưng, bái. Khi xướng "hưng" 
												th́ hai vị chánh tế bồi tế đứng 
												thẳng người, chắp tay trước ngực. 
												Khi xướng "bái" th́ cả hai qùy 
												xuống, đầu cúi sát cho trán chạm 
												đất. Lạy đúng ba lần, học tṛ lễ 
												xướng "hưng, b́nh thân". 
												Xong tiết mục lễ bái, vị Hương 
												lễ đọc văn tế với đại ư cầu xin 
												thủy thần Đông Hải pḥ hộ cho 
												trời yên bể lặng, năm mới được 
												mùa cá. Sau đó, màn hát bả trạo 
												(hát có cầm mái chèo) tượng 
												trưng cho con thuyền ra khơi 
												đánh cá. Đây là loại dân ca nghi 
												lễ ở vùng ven biển miền nam 
												Trung Việt, tŕnh bày hoạt cảnh 
												bơi thuyền qua nghệ thuật diễn 
												tuồng. Diễn viên toàn là đàn ông, 
												vừa hát vừa múa nhịp nhàng theo 
												động tác chèo lái. Đội h́nh hát 
												bả trạo gồm một Tổng tiền (tức 
												Tổng mũi) đứng trước, tiếp theo 
												có 8 hay 12 hoặc 16 con trạo (tức 
												bạn chèo) xếp thành hai hàng dọc, 
												một Tổng thương (tức Tổng khoang) 
												đứng giữa hàng bạn chèo và sau 
												cùng là Tổng hậu (tức Tổng lái). 
												Về trang phục và trang cụ, Tổng 
												mũi và Tổng lái mặc lễ phục cổ 
												truyền nhưng Tổng mũi hóa trang 
												rực rỡ, nai nịt oai vệ như một 
												vị tướng, tay cầm cặp sênh, mặt 
												quay về phía bạn chèo, gơ nhịp 
												điều khiển; c̣n Tổng lái tay cầm 
												chèo dài khoảng 2 mét, múa động 
												tác lái thuyền. Các bạn chèo 
												đồng phục trắng, đầu chít khăn, 
												thắt lưng đỏ, chân đi bít tất có 
												quấn xà cạp, tay cầm mái chèo 
												ngắn độ 1,2 mét múa động tác 
												chèo thuyền. Về nghệ thuật, có 
												sự phối hợp nhịp nhàng giữa âm 
												nhạc, lời ca và động tác. Về 
												nhạc cụ, ngoài cặp sênh của Tổng 
												mũi c̣n có đàn c̣, trống kèn đệm 
												âm. Về diễn xuất, Tổng mũi phải 
												là một nghệ sĩ biết đủ các làn 
												điệu dân gian từ ca, ngâm, lư, 
												hát bài cḥi, phú, ḥ đến các 
												làn điệu hát tuồng như nói lối, 
												tán, oán, thán, xướng, hát nam...
												
												Xong màn hát bả trạo, đến lượt 
												hát bội, hát đến sáng. V́ hát lễ 
												nên phải chọn tuồng cho hợp với 
												sự cung nghiêm như Hoa Dung Lộ (Quan 
												Công tha Tào Tháo), Cổ Thành (Quan 
												Công quá quan)... 
												Tiếp sau đêm tế ở lăng ông Nam 
												Hải, dân làng c̣n tổ chức hát 
												bội ba đêm liền nhưng dời sân 
												khấu ra băi cát rộng bên ngoài 
												lăng cho mọi người xem, tránh sự 
												xâm nhập tà tạp, mang ô uế đến 
												nơi thờ phượng. (internet)
 
												
												LỄ HỘI 
												ĐÂM TRÂU
												
LỄ 
												HỘI ĐÂM TRÂU: Theo tài liệu 
												thống kê và nhân chứng, đồng bào 
												Bania (Bahnar, Bana) hiện nay có 
												136.859 người ở rải từ Kontum, 
												Pleiku, An Túc và phía tây hai 
												tỉnh B́nh Định, Phú Bổn (nay 
												thuộc Phú Yên). Dân tộc thiểu số 
												Bana có bảy chi nhánh nhưng chỉ 
												có ba nhánh: Alakông, Tơ lô và 
												Bơ Nam (B.Mơ Nam) là tập trung ở 
												An Túc, dọc biên giới phía tây 
												tỉnh B́nh Định và đông đảo ở 
												huyện Vĩnh Thạnh 
												Hàng năm, từ tháng chạp đến 
												tháng ba âm lịch, dân tộc Bana 
												theo truyền thống mở lễ hội tạ 
												ơn Giàng (Yang) là đấng thần 
												linh tối cao của họ. Người Bana 
												gọi lễ ấy là Koh Kpô hay Groong 
												Kpô Tonơi, tiếng Việt gọi là Lễ 
												Hội Đâm Trâu. 
												
Theo Đặc sản Văn hóa B́nh 
												Định (ấn hành tại Qui Nhơn, 
												1992) và các tài liệu khác, già 
												làng chọn băi đất rộng, bằng 
												phẳng thuộc địa phận buôn làng 
												ḿnh để dựng giàn tế (gưng) là 
												một quân thể gồm: Một cây tre 
												cao, thẳng, c̣n nguyên ngọn, gốc 
												được chôn vững vàng gọi là nêu, 
												sát bên cây nêu là một cột lớn 
												rắn chắc bằng cây muôn hay cây 
												plang, cũng được chôn chặt để đỡ 
												cây nêu và dùng vào việc buộc 
												trâu; nhưng nếu chọn được cây 
												săn thẳng, đủ vững chắc để làm 
												nêu th́ không cần trụ buộc trâu 
												nữa. Và quanh cây nêu c̣n trồng 
												4 hay 8 trụ gỗ tṛn, cao độ 3 
												mét, đường kính khoảng 15cm. Các 
												trụ gỗ này được bố trí theo h́nh 
												hoa thị đối xứng từng cặp và 
												trang trí thành những vành 
												khuyên sơn màu đen, trắng, xanh, 
												đỏ xen kẽ nhau. Ở đầu các trụ gỗ 
												có các thanh ngang buộc nối hai 
												trụ lại với nhau, cấu kết theo 
												thế liên hoàn vững chắc. Dọc 
												theo chân cây nêu có các dây 
												buông dài, tết bằng lạt tre buộc 
												những tấm nan h́nh tam giác và 
												các ống tiêu gió bằng cây lồ ô 
												đưa vi vu trước gió. Trên cùng 
												cây nêu có treo túi thiêng, tiếp 
												theo là cánh phướng đan bằng lạt 
												giang, biểu tượng cho chim đại 
												bàng (kring), h́nh ảnh của sức 
												mạnh và trí tuệ (5). 
												Lễ hội Đâm Trâu được tổ chức 
												trong ba ngày, hai ngày đầu tại 
												giàn tế (gưng), ngày cuối ở sân 
												Nhà Làng (nhà Rông). Ngày thứ 
												nhất, người ta dắt một con trâu 
												to béo, đầy sức lực đến giàn tế, 
												nối cổ trâu vào cột tế (Plang 
												Kpô) bằng một dây thừng bện thật 
												chắc, dài độ 2 mét tây. Dân 
												trong buôn và người xem đứng bao 
												quanh giàn tế thành một ṿng 
												tṛn rộng. 
												Giờ hành lễ bắt đầu, dàn cồng 
												rộn ră nổi lên chen lẫn âm thanh 
												của bộ chiêng rền vang, kết hợp 
												với bộ trống lớn (Bnưng) dồn dập, 
												dậy lên bản giao hưởng hùng 
												tráng như tiếng gọi từ hồn 
												thiêng ngày hội. 
												Các thanh niên nam nữ xếp hàng 
												dọc, tay cầm gậy múa Kơ tếch (điệu 
												múa dành riêng cho lễ hội Đâm 
												Trâu), đi ṿng quanh giàn tế 
												theo chiều ngược kim đồng hồ, vị 
												tù trưởng đứng vai chủ tế dẫn 
												đầu các vị bô lăo (chừng 5, 6 
												người), mặc lễ phục sặc sỡ từ từ 
												tiến đến giàn tế, quỳ rạo khấn 
												vái thần Giàng (Yang). Tiếp theo 
												bài khấn là lễ Hiến tế, một bô 
												lăo mạnh mẽ nhất trong ban tế lễ, 
												tay cầm giáo, tay cầm khiên bước 
												ra khỏi hàng, lựa thế đâm một 
												nhát vào con vật tế thần. Tuy bị 
												thương nhưng trâu vẫn c̣n sức 
												mạnh, cố bứt dây chạy thoát 
												nhưng không được, đành chạy ṿng 
												quanh giàn tế. Mọi người trong 
												buôn đồng loạt hú lên, rung 
												chuyển cả núi rừng và đi quanh 
												giàn tế đánh cồng, múa hát đến 
												chiều tối mới măn. 
												Ngày thứ hai, cả buôn tập trung 
												bao quanh giàn tế để làm lễ hiến 
												sinh. Lần này trai tráng trong 
												buôn vào cuộc. Họ cầm vũ khí và 
												khiên, la hét, dồn đuổi con trâu 
												chạy quanh giàn tế. Họ thi nhau 
												bắn cung, phóng lao, đâm giáo 
												vào con vật tế thần. Ḷng dũng 
												cảm và sự khôn khéo của họ được 
												thể hiện qua cách săn đuổi con 
												mồi, và phần thưởng chiến thắng 
												dành cho chàng trai nào lựa được 
												thế, đâm thẳng tim con vật gục 
												xuống chết ngay. Già làng cầm 
												bát đồng hứng máu tươi, ḥa với 
												rượu dâng thần linh. Tiếng hú 
												mừng chiến thắng lại một lần nữa 
												vang trời dậy đất. 
												Trâu được xẻ thịt ngay tại chỗ, 
												chọn thịt ngon và toàn bộ lá gan 
												chia đều cho năm nhóm rồi vảy 
												máu đă ḥa rượu, cung kính đật 
												trên bàn thờ thần Giàng. Già 
												làng đứng ra khấn bái. Xong lễ, 
												gan trâu được chia đều cho tất 
												cả trai tráng trong buôn. Họ tin 
												rằng ăn gan đó sẽ tăng cường sức 
												mạnh và ḷng dũng cảm v́ đă có 
												thần Giàng chứng nhận. 
												Ngày thứ ba, túi thiêng trên cây 
												nêu được rước về thờ ở nhà Rông, 
												đặt ngay chỗ để ṿ rượu chính. 
												Già làng làm lễ khấn xong, gọi 
												mọi người đến uống rượu này v́ 
												tin rằng ảnh hưởng của túi 
												thiêng đă ḥa trong rượu, uống 
												vào sẽ tiêu trừ những rủi ro 
												bệnh tật. Họ c̣n tổ chức những 
												tṛ chơi thượng vơ ngay trước 
												sân nhà Rông như bắn cung, đấu 
												kiếm, phóng lao, đấu vơ... cuộc 
												vui suốt ngày và kéo dài đến 
												thâu đêm suốt sáng. 
												Lễ hội ngày xuân ở B́nh Định c̣n 
												nhiều lắm, v́ bài viết giới hạn 
												trong khuôn khổ trang báo, không 
												thể nêu lên hết được. Ngày nay, 
												các lễ hội như Chợ Tết G̣ Chàm, 
												Hội Tết Chợ G̣, Lễ Hội Đống Đa 
												vẫn c̣n đó, tuy có thay đổi ít 
												nhiều cho phù hợp với hoàn cảnh 
												của mỗi thời đại. Hội Hát Xuân 
												đă tắt lịm từ lâu, nhưng dân 
												chúng vẫn c̣n nuối tiếc. Mỗi dịp 
												xuân về, ở một vài nơi c̣n gắng 
												gượng tổ chưc đám hát nho nhỏ 
												tại địa phương. Dĩ nhiên không 
												thể nào có được cái huy hoàng 
												ngày cũ và cũng không thể giữ lệ 
												đều đặn hàng năm. Lễ Hội Cầu Ngư 
												tuy vẫn c̣n nhưng thu gọn lại 
												nhiều, màn diễn bả trạo đă vắng 
												bóng, c̣n hát bội th́ năm có năm 
												không, lệ cắt tiết các con vật 
												trước sân tế đă bỏ hẳn v́ không 
												ai muốn đem vào cuộc vui cảnh 
												lưu huyết thương tâm. 
												C̣n Lễ Hội Đâm Trâu của người 
												Bana đă rút ngắn c̣n một ngày 
												đêm, con vật chịu lễ được các 
												tay thiện nghệ nhanh chóng đâm 
												chết, không c̣n cảnh săn đuổi 
												kéo dài sự hăi hùng đau đớn và 
												người dự lễ hội đỡ bị căng thẳng 
												thần kinh v́ thương cảm. 
												(internet) 
												
HỘI 
												HÁT XUÂN
												
Hội 
												Hát Xuân có từ lâu, có lẽ phát 
												xuất từ lúc tỉnh thành B́nh Định 
												được xây dựng năm Mậu Th́n 
												(1808), 
												Gia Long thứ 7, khi khánh 
												thành có hát mừng và từ ấy năm 
												nào cũng tổ chức, lâu năm thành 
												lệ. 
												Hàng năm, sau tết Nguyên đán, 
												trong tháng giêng âm lịch có lệ 
												hát bội tại B́nh Định, quen gọi 
												là Hát Xuân, do quan đầu tỉnh tổ 
												chức, đám hát này lớn nhất, được 
												tổ chức chu đáo nhất, diễn xuất 
												hay nhất và khán giả cũng đông 
												đảo nhất , so với các cuộc hát 
												xướng trong năm ấy tại tỉnh nhà. 
												
Con hát được lựa chọn, toàn 
												đào kép thượng thặng, rút ra từ 
												các gánh hát trong tỉnh, nên gọi 
												là "hát rút". Hát Xuân cũng chỉ 
												diễn lại các tuồng nổi tiếng như 
												"Sơn Hậu, Phụng Nghi Đ́nh, Ngũ 
												Hổ B́nh Tây, Hộ Sanh Đàn, Diễn 
												Vơ Đ́nh, Tân Dă Đốn, Tam Nữ Đồ 
												Vương..." nhưng rất hấp dẫn v́ 
												đào kép xuất sắc đảm nhận từ vai 
												chính đến các vai phụ, nên diễn 
												xuất hoàn hảo từ đầu tới cuối.
												
												Mặc dù sân khấu đặt trong sảnh 
												đường rộng lớn, nhưng quan lại 
												và dân chúng từ các nơi đổ về 
												đông nghẹt, phải cất nhà tạm 
												bằng tranh tre để dung nạp quan 
												khách có chỗ ăn uống và nghỉ 
												ngơi. Tuy là nhà tạm nhưng cũng 
												xén cắt mái tranh ngay thẳng, 
												trần thiết kỹ lưỡng, cũng trướng 
												rũ màn che, liễn hoành rực rỡ.
												
												
												Tỉnh có đội lính dàn chào để đón 
												quan khách, cờ lọng rợp trời, 
												gươm tuốt trần, súng cầm tay 
												trông thật long trọng. Ngày khai 
												mạc có đủ mặt các quan lớn nhỏ 
												trong tỉnh và có nhiều đại biểu 
												từ các tỉnh khác đến dự. Hàng 
												ghế đầu, ngồi giữa là quan Tổng 
												Đốc, bên tả có quan Bố Chánh, 
												bên hữu có quan Án Sát, ngoài ra 
												c̣n có các vị thượng khách, các 
												quan đại thần về hưu. Thường th́ 
												quan đầu tỉnh lănh vinh dự cầm 
												chầu điều khiển cuộc hát, tuy 
												nhiên cũng có khi nhường lại roi 
												chầu cho một vị quan khác v́ 
												không rành hát bội. Các hàng ghế 
												kế tiếp lần lượt dành cho các 
												tri phủ, tri huyện, các quan hưu 
												trí, thân hào nhân sĩ, các viên 
												thơ lại, rồi đến Chánh, Phó tổng, 
												các chức sắc làng xă, sau cùng 
												là dân chúng đứng xem trong trật 
												tự, yên lặng. Mọi người từ già 
												trẻ lớn bé đều phải mặc áo dài, 
												sang th́ bận áo cặp trong trắng 
												ngoài đen, hèn th́ cũng phải áo 
												đơn, đàn ông đội khăn đóng, đàn 
												bà chít khăn hay đội nón. 
												Đám hát kéo dài suốt hai ngày 
												hai đêm, diễn hết tuồng này đến 
												tuồng khác, đào kép thay phiên 
												nhau tŕnh diễn liên tục. Sáng 
												bắt đầu từ 7 giờ đến 11 giờ, 
												chiều hát từ 1 giờ đến 5 giờ, 
												tối tiếp tục từ 7 giờ đến quá 
												nửa đêm và phải tŕnh diễn cho 
												hết tuồng mới thôi. Ban ẩm thực 
												làm việc suốt ngày đêm, sẵn sàng 
												cỗ bàn, mỗi ngày ba bữa chu đáo. 
												Ḅ, heo, dê, gà vịt nhốt sẵn, 
												cần th́ đem ra xẻ thịt ngay. 
												Gánh hát nào có nhiều đào kép 
												được quan tỉnh chọn vào đám Hát 
												Xuân th́ được nổi tiếng. Riêng 
												cá nhân của diễn viên cũng có 
												nhiều quyền lợi, được các quan 
												thưởng tiền trong những pha độc 
												đáo, nếu rất xuất sắc được xét 
												ban cho phẩm hàm trong làng nghệ 
												sĩ như chức danh Chánh ca (hàm 
												Chánh Cửu phẩm rồi lên Tùng Bát 
												phẩm), Phó Chánh ca, Quản ca... 
												v́ thế, các diễn viên thi nhau 
												trổ tài, đem hết ngón nghề ra 
												cống hiến. 
												Năm 1934, dinh quan tỉnh dời về 
												Qui Nhơn, thành B́nh Định giao 
												lại cho quan Phủ, tuy nhiên hàng 
												năm quan Tổng đốc vẫn về đây chủ 
												tŕ việc Hát Xuân. Lần hát cuối 
												cùng vào xuân Ất Dậu (1945), sau 
												đó là thời kỳ Việt Minh, thành 
												B́nh Định bị san bằng và Hội Hát 
												Xuân cũng chấm dứt vĩnh viễn. 
												(internet)
												CHỢ 
												TẾT G̉ CHÀM
												
Cách 
												thị trấn B́nh Định chừng hai cây 
												số về phía bắc, chợ G̣ Chàm tọa 
												lạc trên một khoảnh đất cao, 
												rộng chừng hai mẫu tây, phía bắc 
												giáp sông cầu Chàm, phía tây sát 
												quốc lộ 1. Ngày nay, nơi ấy nhà 
												cửa mọc lên san sát lại có một 
												bệnh xá, không c̣n dấu vết ǵ 
												một ngôi chợ lớn nhất tỉnh, 
												nhưng địa giới là cây cầu bắc 
												qua quốc lộ 1 vẫn c̣n đó và vẫn 
												giữ nguyên cái tên "Cầu Chàm" 
												như thuở nào. Theo các vị bô lăo, 
												ngày xưa chợ này tên chữ là Lam 
												Kiều thị, có dựng trụ ngay trước 
												chợ khắc ba chữ ấy và vùng này 
												gọi là xứ Lam Kiều, thời Minh 
												Mạng thuộc làng An Ngăi tổng 
												Thời Đôn huyện Tuy Viễn phủ An 
												Nhơn. Mang tên xứ Lam Kiều v́ 
												xưa kia trồng nhiều cây chàm để 
												nhuộm vải, thế th́ đúng ra phải 
												gọi là chợ Cầu Chàm nhưng dân 
												chúng lại quen gọi là chợ G̣ 
												Chàm. Bởi đó, có người c̣n cho 
												rằng chợ được lập trên vùng đất 
												g̣ có nhiều mồ mả người Chàm nên 
												mới gọi là chợ G̣ Chàm.
Năm 
												1940, chợ G̣ Chàm dời vào khu 
												đất phía đông bắc bên ngoài 
												thành B́nh Định, sát với khu phố 
												của thị trấn và đổi danh hiệu là 
												chợ B́nh Định, nhưng dân chúng 
												vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn 
												giữ vai tṛ lớn nhất tỉnh, nhóm 
												chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu 
												phiên vào các ngày mồng 3, 8, 
												13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa 
												nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28 
												tháng chạp âm lịch nhóm suốt 
												ngày đêm và đông hơn các phiên 
												chợ khác trong năm. 
												Phiên chợ tết khác với phiên 
												thường v́ có nhiều người đến chợ 
												để dạo chơi, ăn uống, thết đăi 
												bạn bè và càng về đêm người dạo 
												càng đông. Người đi chợ để mua 
												bán cũng tăng lên gấp nhiều lần 
												v́ phiên chợ này không thiếu món 
												sơn hào hải vị nào cần mua sắm 
												làm cỗ dọn tết. Họ réo gọi nhau 
												tốp năm tốp ba cùng đến chợ cho 
												vui, trong bài vè chợ G̣ Chàm đă 
												diễn tả quang cảnh rộn rịp ấy:
												
												
												Bớ chị em ơi! Đi chợ 
												Chợ nào bằng chợ G̣ Chàm 
												Tôm tươi cá trụng thịt ḅ thịt 
												heo 
												C̣n thêm bánh đúc bánh xèo 
												Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
												
												Những con cá chép cá thu 
												Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
												
												
												Người cần mua sắm quần áo, nữ 
												trang để chưng diện trong dịp 
												tết, đến chợ G̣ Chàm tha hồ lựa 
												chọn cho vừa ư: 
												
												Những c̣n hàng giép hàng 
												giày 
												Nón ngựa nón chóp bán rày liên 
												thiên 
												Lại c̣n những món nhiều tiền 
												Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu 
												thơm... 
												
												Chợ G̣ Chàm c̣n có riêng một khu 
												chuyên bán súc vật, quen gọi là 
												chợ Ḅ. Tuy đặt tên như vậy 
												nhưng người ta đem bán đủ loại 
												gia súc: từ trâu, ḅ, heo, dê, 
												cừu đến gà vịt, ngỗng, chim chóc... 
												và có cả thú rừng mới vừa săn 
												bắt hay đă thuần hóa; cứ đến chợ 
												G̣ Chàm, nhất là phiên chợ tết 
												là có ngay. Một đặc điểm nữa, 
												phiên chợ tết có bán gà thiến, 
												cho thịt thơm ngon mềm và béo, 
												dùng vào việc làm lễ vật rất 
												thông dụng. Dân trong vùng có 
												tục lệ "mồng một tết cha, mồng 
												ba tết thầy" Nào là chàng rể lễ 
												tết cha mẹ vợ, tân gia đi tết 
												thầy địa và thợ cả dựng nhà, 
												tang gia lễ tết thầy liệm, thầy 
												cúng, vơ sinh lễ tết sư phụ, học 
												tṛ lễ tết thầy cô giáo... rầm 
												rộ thành phong trào lễ tết hàng 
												năm. 
												Trong hai phiên chợ tết G̣ Chàm, 
												phiên 23 lớn hơn và vui hơn v́ 
												ngày tết tương đối c̣n xa, đủ 
												thời gian kịp mua kịp bán. Nhiều 
												thương nhân từ các tỉnh khác chở 
												hàng hóa đến bán: 
												Xem ra chẳng thiếu hàng nào 
												Quảng Nam, Quảng Ngăi cũng vào 
												cũng vô ... 
												Có cả những lái buôn từ miền núi 
												chở lâm sản xuống và mua sỉ hàng 
												hóa, thực phẩm ở đồng bằng đem 
												về xứ bán lại kiếm lời: 
												
												Buôn mọi bán rợ 
												Mấy chú An Khê 
												Ở trển đem về 
												Xấp trần nài rể 
												
												Phiên chợ 23 c̣n một điểm thuận 
												tiện nữa, vừa lúc các trường thi 
												xong kỳ đệ nhất lục cá nguyệt, 
												chuẩn bị liên hoan, chia tay về 
												nghỉ tết. Những năm cuối thập 
												niên 60 và đầu thập niên 70, ở 
												thị trấn B́nh Định có ba trường 
												trung học đệ nhị cấp: một công 
												lập, một bán công và một tư thục, 
												có thêm môt trường tiểu học; các 
												thầy cô và học sinh đều rảnh rỗi, 
												họ rủ nhau dạo chợ đêm, mua vài 
												món hàng đặc sản đem về xứ làm 
												quà tết, cả nhân viên của các 
												ngành của quận An Nhơn cũng tham 
												gia. Nhờ thế, chợ tết càng đông 
												đúc khách dạo chen chúc với kẻ 
												bán người mua, suốt đêm dập d́u 
												tấp nập, vui không xiết kể. 
												Phiên chợ 28, cận ngày tết quá, 
												nhất là những năm gặp phải tháng 
												thiếu (chỉ có 29 ngày) nên vắng 
												khách phương xa nhưng bù lại 
												phiên cuối năm đặc biệt có thêm 
												chợ hoa: 
												Đường cát Dương An 
												Đĩa bàn nội phủ 
												Thêm đủ hàng hoa... 
												Người ta đến xem hoa, mua hoa, 
												nơi hội ngộ của nghệ nhân trong 
												vùng và tao nhân mặc khách. Ở 
												đây có đủ loại hoa kiểng, từ 
												những cội mai núi h́nh thù kỳ dị 
												đến những cành mai vườn đầy ắp 
												nụ. Chỉ cần mua vài chậu hoa lạ 
												đem về tô điểm cho giàn cây 
												kiểng (2) sẵn có là thấy cảnh 
												nhà hực hở lên rồi. 
												Sau phiên chợ 28, hầu như trong 
												tỉnh không c̣n phiên chợ nào 
												đáng kể nữa, dân chúng cũng cần 
												ở nhà lo làm cỗ cúng rước ông bà 
												và chuẩn bị đón giao thừa. 
												(internet)
 
												
Lễ 
												Hội Tây Sơn
												
												Lễ hội long trọng và qui 
												mô lớn nhất của B́nh Định là 
												lễ hội Tây Sơn được tổ 
												chức tại nhiều làng của huyện 
												B́nh Khê cũ, nay đổi tên là 
												huyện Tây Sơn. Đông đảo và tưng 
												bừng nhất là 
												lễ hội tổ chức tại làng 
												Kiên Mỹ, quê hương và cũng là 
												nơi dấy binh của ba anh em nhà 
												Tây Sơn.
												
												Lễ hội diễn ra trong 
												nhiều ngày, mồng 5 tháng Giêng (kỷ 
												niệm chiến thắng Đống Đa) là 
												ngày 
												lễ chính. Trước sân điện 
												thờ và nhà bảo tàng Tây Sơn, 
												tiếng trống đại vang lên trong 
												không khí trang nghiêm thơm ngát 
												mùi trầm; vị chánh tế đọc bài 
												văn tế ôn lại sự nghiệp của 
												phong trào Tây Sơn và những 
												thành tựu của triều đại Tây Sơn 
												(1770-1802), 
												các đoàn đại biểu đến từ nhiều 
												miền của đất 
												nước dâng hương trước 
												điện thờ. Dàn nhạc vơ 12 trống 
												vang lên từ khúc thúc quân đến 
												khúc khải hoàn.
												Từ vùng đất này đă ra đời một 
												phái vơ làm rạng danh truyền 
												thống vơ nghệ Việt Nam từ nhiều 
												thế kỷ nay : phái vơ Tây Sơn. 
												Hàng năm phái vơ này sống lại 
												rạng rỡ trong lễ hội Tây Sơn, và 
												hàng trăm ngàn người hành hương 
												về đây để được nghe lại âm hưởng 
												của khúc nhạc trống trận, được 
												chiêm ngưỡng những thế vơ, bài 
												quyền bất hủ, nào là long quyền, 
												hổ quyền, kê quyền, quyền gà 
												chọi... gắn liền với tên tuổi 
												Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ là những 
												vơ sĩ đă góp phần cách tân, nâng 
												cao vơ thuật Tây Sơn ở các môn 
												côn, quyền, song kiếm, đại đao...
												
												Vơ thuật Tây 
												Sơn cũng đă thăng hoa thành nghệ 
												thuật âm nhạc. Đó là điệu 
												múa-nhạc trống vơ Tây Sơn mà 
												mười mấy năm nay, những người dự 
												lễ hội Tây Sơn tại B́nh Định 
												được thưởng thức qua tài nghệ 
												của một thiếu nữ - cháu bảy đời 
												của ḍng tộc Nguyễn Huệ - mặc áo 
												chẽn đỏ (hay trắng), quần màu 
												hồng nhạt, lưng thắt đai xanh, 
												hai tay múa cặp dùi lướt chớp 
												nhoáng trên cả 12 mặt của bộ 
												trống trận Tây Sơn, với một 
												phong thái làm chủ oai phong vô 
												cùng điệu nghệ, lại được tiếng 
												kèn và nhịp chập chơa phụ họa, 
												tạo nên một ấn tượng hùng tráng 
												tuyệt vời.
												Nguồn: Saigontoserco