|   | 
		 Lễ hội nghinh ông ở Bến Tre  
		Cùng với lễ hội ḱ yên đ́nh thần và ḱ yên miễu Bà, Bến Tre c̣n có lễ 
		hội ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tâm linh của cư dân ven biển sống 
		bằng nghề đánh bắt thuỷ sản. Đó là lễ hội nghinh ông, c̣n gọi là lễ hội 
		cầu ngư.  
		Qua kết quả tổng điều 
		tra di sản văn hoá phi vật thể tỉnh Bến Tre năm 2004, toàn tỉnh có 12 
		lăng ông chia ra: huyện Ba Tri 4 lăng; huyện Thạch Phú 4 lăng; huyện 
		B́nh Đại 4 lăng. 
		Đây là lễ hội xuất phát từ tục thờ cúng cá ông (cá 
		voi) của ngư dân Việt từ Quảng B́nh đến cực Nam Tổ quốc. 
		Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, tục thờ cúng cá 
		ông của người Việt là sự giao thoa và tiếp biến văn hóa Việt - Chăm 
		trong quá tŕnh phát triển của lịch sử văn hóa dân tộc. 
		Chuyện cổ Chăm Pa kể rằng: cá voi là hóa thân của 
		vị thần có tên là Cha-Ail-va tu luyện trên núi. V́ nỗi nhớ quê hương nên 
		cĩa lại lệnh thầy, tự ư biến thành cá voi để theo sông lớn ra biển trở 
		về quê. Trong quá tŕnh vượt sông, thần trải qua bao gian lao thử thách 
		để cuối cùng trở lại h́nh dáng con người đổi danh xưng là Pô-Raik, tức 
		là thần sông biển, chu du khắp biển cả bao la, sẵn sàng cứu người gặp 
		tai họa đắm thuyền trên biển cả. 
		Cũng có truyện kể rằng: 
		do cá ông chống lại các loài ca dữ để cứu người nên bị trọng thương, tuy 
		thắng trận nhưng do vết thương quá nặng nên cá ông lụy (cá ông chết). 
		Xuất phát từ các truyện 
		tích trên và những đặc điểm về cấu tạo sinh học của cá voi, nên ngư dân 
		đều xem cá ông như là vị thần cứu hộ độ sinh của ngư dân, do đó ngư dân 
		lập lăng mộ thờ tự. 
		Theo Trương Quốc Dụng (1797-1864), danh sĩ triều 
		Nguyễn (thời Minh Mạng), trong Thoái 
		thực kí văn có viết: “Hải thu tục gọi là cá ông voi, ḿnh đầu 
		không vây, đuôi giống đuôi tôm, ḱ nó rất sắc, mũi ở trên trán...Khi 
		phong ba nổi dậy, thuyền bị đắm giữa biển cả, cá voi thường xuất hiện, 
		đội thuyền trên lưng, đưa vào gần bờ, vẫy đuôi bỏ lên”. 
		 
		Trong tâm thức dân gian, 
		chủ yếu là những ngư dân trên biển, nơi đầu sóng, ngọn gió, thường gặp 
		băo tố, phong ba th́ h́nh ảnh cứu hộ độ sinh của cá ông trở thành chỗ 
		dựa tinh thần “niềm tin này ban đầu là một nhu cầu giúp người ta có thể 
		chịu đựng gian khổ, hiểm nguy trong cuộc mưu sinh, dần dần dấu vết của 
		niềm tin hằng sâu vào tâm thức, trở thành một tín ngưỡng dân gian”. 
		Ở Bến Tre tục thờ cúng cá ông voi có ngay từ buổi 
		đầu lập nghiệp (cách nay trên 200 năm). Chứng tích của tín ngưỡng này là 
		lăng ông Vang Quới Tây (huyện B́nh Đại), lăng ông Nam Hải xă An Thủy (huyện 
		Ba Tri)..., nhưng lễ hội nghinh ông tập trung vào những năm 1940-1950 
		thế kỉ XX. V́, tuy Bến Tre có 65 km bờ biển, nhưng nghề đánh bắt thủy 
		sản của ngư dân Bến Tre sống ven biển Đông phát triển chậm, chủ yếu đánh 
		bắt theo thời vụ bằng các phương tiện: đăng, đáy, lưới bén, cào, xiệp,... 
		theo con nước lớn, nước ṛng ven bờ, sản lượng không đáng kể, phục vụ 
		chủ yếu cho cộng đồng cư dân ven biển. Từ đánh bắt thủy sản mang tính tự 
		cung, tự cấp phát triển thành nghề đánh bắt, không chỉ nuôi sống bản 
		thân mà trở nên giàu có. 
		Phương tiện đánh bắt không ngừng cải thiện, sản 
		lượng ngày càng cao, nhu cầu thu mua và tiêu thụ sản phẩm là vấn đề có ư 
		nghĩa quyết định đến sự phát triển của làng nghề, đồng thời cũng mang 
		lại nhiều lợi nhuận cho người tổ chức thu mua và chế biến thủy sản tư 
		nhân. Các ghe rỗi trên biển (ghe thu mua cá ngay trên biển), các vựa cá 
		ven các cửa sông phát triển ngày càng đa dạng đă tác động đă tác động 
		ngược lại đến sự phát triển của làng nghề cả về phương tiện đánh bắt, 
		kích thích nâng cao tay nghề ngư dân, tạo thêm công ăn việc làm cho 
		người dân, đồng thời nhu cầu về đời sống tinh thần, về tổ chức lễ hội v́ 
		thế ngày càng mở rộng. 
		Ở Bến Tre việc tổ chức lễ hội nghinh ông không tổ 
		chức tập trung, mà phân bố vào các tháng 2, 4, 6, 8 âm lịch. Ngoài lễ 
		hội nghinh ông ở xă B́nh Thắng huyện B́nh Đại, các địa phương khác tổ 
		chức lễ hội nghinh ông không vượt quá ngoài khu thờ tự. 
		 
		Lễ hội nghinh ông ở xă B́nh Thắng tuy ra đời muộn 
		màng hơn so với các địa phương khác trong tỉnh nhưng lễ hội không chỉ 
		thể hiện đầy đủ tính vốn có của lễ hội dân gian, mà c̣n phản ánh sinh 
		động cả nội dung và thức của nghề hạ bạc trong hệ thống tín ngưỡng dân 
		gian Việt Nam. 
		B́nh Thắng, tiền nguyên là ấp B́nh Thuận 2 được 
		tách ra từ ấp B́nh Thuận sau đổi tên là B́nh Châu thuộc thị trấn B́nh 
		Đại. Sau giải phóng do nhu cầu của sự phát triển, B́nh Thuận được đổi 
		thành B́nh Thắng và được nâng lên xă B́nh Thắng. 
		Nguyên vào năm 1944, ông Ngô Minh Châu ngụ tại ấp 
		B́nh Thuận nhận thấy tại khu vực này rất thuận lợi cho việc tổ chức thu 
		mua, sơ chế sản phẩm từ nguồn lợi thủy sản do ngư dân cung cấp, nên ông 
		dời về đây lập vựa cá và cơ sở sản xuất nước mắm. Việc làm ăn ngày càng 
		phát triển thuận lợi, không chỉ thu hút ngư dân các nơi từ G̣ Công, Trà 
		Vinh và ngư dân trong tỉnh về đây trao đổi sản phẩm, mà c̣n dời cả gia 
		đ́nh về ngụ cư ổn định sản xuất, đồng thời thu hút nhiều gia đ́nh nông 
		dân cuộc sống khó khăn, hoặc có óc kinh doanh trong khu vực tụ họp về 
		đây tham gia sơ chế thủy sản, mở mang dịch vụ dịch vụ, hoặc tham gia làm 
		thuyền viên cho các chủ thuyền đánh bắt. Cư dân ngày càng đông, nghề 
		đánh bắt ngày càng phát triển. Xuất phát từ yêu cầu của cư dân, ông Ngô 
		Minh Châu gởi đơn xin lập ấp B́nh Thuận 2 và đề cử ông Nguyễn Văn Quởn 
		làm trưởng ấp, được chính quyền chấp nhận. Đồng thời ông đứng ra xây 
		dựng lăng Ông Nam Hải và tổ chức khánh thành vào ngày 19/7/1951, nhằm 
		ngày 16/6 năm Tân Măo. Do đó, tuy ra đời muộn màng, nhưng tính chất làng 
		nghề đánh bắt thủy sản ở xă B́nh Thắng đă h́nh thành ngay từ ngày đầu 
		lập ấp, cho nên không chỉ làng nghề nhanh chóng phát triển, mà lễ hội 
		nghinh ông của xă B́nh Thắng được định h́nh ngay từ ngày đầu tổ chức lễ 
		hội và lưu truyền cho đến nay, tuy có biến đổi, nhưng theo các bậc cao 
		niên là không đáng kể. 
		Nếu như trước đây phục vụ lễ hội chỉ có hát bội, 
		múa lân, chào mừng, nay có thêm hoạt động giao lưu đờn ca tài tử, biểu 
		diễn vơ thuật, và các dịch vụ phục vụ làng nghề của ngành thủy sản, 
		ngành vật tư xăng dầu,...; Ngoài việc tổ chức nghi lễ do ban tế tự tổ 
		chức tại lăng và tổ chức nghinh ông trên biển, ngư dân c̣n tổ chức 
		nghinh ông tại gia hoặc trên thuyền đánh bắt cùng vạ thời điểm nghinh 
		ông. Trước thời điểm nghinh ông các chủ tàu sẵn sàng đón nhận khách tham 
		quan đi cùng và sẵn ḷng chiêu đăi khách sau nghi thức nghinh ông tại 
		gia. 
		Tại lăng, thời gian lễ hội được phân bố như sau: 
		Ngày 15/6 al:  19 giờ- Giao lưu đơn ca tài tử; 21 
		giờ – Lễ hội cầu an 
		Ngày 16/6 al: 05 giờ – 6 giờ – Tổ chức lễ hội 
		nghinh ông; 10 giờ tế phối tiền văng; 19 giờ – Xây chầu đại bội; 24 giờ 
		– Chánh tế. 
		Ngày 17/6 al: Hát bội 2 suất (sáng và chiều); kết 
		thúc lễ hội. Về chiêu đăi khách được tổ chức cả ngày 16 và buổi sáng 17 
		al. 
		Trước giờ nghinh ông, ông chánh bái đến trước linh 
		vị thắp hương khấn nguyện: “Hôm nay ngày 16 tháng 6al, ban tế tự lăng 
		ông B́nh Thắng cung thỉnh Thành hoàng bổn cảnh, Địa chủ, Thần tài, Thổ 
		công, Thổ chủ, Thổ phủ,... cho phép chúng tôi thỉnh Ông về chứng minh 
		nhậm lễ” (lạy 3 lạy- xá 3 xá kết thúc nghi lễ). 
		Xin phép xong, ông chánh bái thỉnh lư hương đi 
		trước, hai bên có lọng che, phía sau là khánh thờ, đi hai bên khánh thờ 
		là hai hàng lính thú và binh tôm, tướng cá cầm đao pḥ trợ; chiêng, 
		trống liên tục đánh ba hồi đến khi kết thúc nghi lễ nghinh ông. 
		Trên tàu, lư hương được đặt vào khánh thờ; trên 
		đoạn đường ra biển nghinh ông, tàu nghinh ông đi giữa và đi phía trước, 
		các vạn tàu đi phía sau và ở hai bên; khi tàu nghinh ông đến giáp nước, 
		ông chánh bái bước vào trước khánh thờ thắp 3 nén nhang khấn nguyện: Lễ 
		xướng “Nguyện hương”, ông chánh nguyện hương nâng ba nén nhang ngang 
		trán khấn nguyện: 
		
			- “Nginh ông sơ ước cam tu,
 
			- Trong bổn hội thảy đều chung ư 
			nguyện
 
			- Nhất nguyện hương Việt Nam củng 
			cố(...) phong điều vũ thuận, vạn thọ vô cương.
 
			- Nhị nguyện hương tinh minh ngũ 
			tử ngư, mục, canh, tiều, sĩ, nông, công, thương, bá tánh nghinhtường, 
			trong thông ấp thảy đều chung nguyện”.
 
		 
		Xướng: “thượng hưởng”; “chuốc tửu”; “nguyện tửu”. 
		Ông chánh nguyện hương nâng chung rượu ngang trán ḷng thành khấn nguyện: 
		“Huỳnh tương tiền và ngọc kính dâng chung; cúc tửu 
		sơ tuần chấp kỉnh tư đơn, chúc linh tấn tước”. 
		Khấn xong lạy ba lạy, xá ba xá thực kiện nghi lễ 
		xin keo. Trước khi xin keo, hai tay nâng hai đồng tiền ngang trán tŕnh 
		lễ xin keo, nội dung như sau: “Đệ tử 
		tên là (...) chánh nguyện hương của ấp 3 xă B́nh Thắng, huyện B́nh Đại, 
		tỉnh Bến Tre. 
		Hôm nay, ngư dân 
		bổn hội chúng tôi đă tới đây, ra đây để nghinh ông về uống rượu, sau xem 
		ba suất hát với anh em bổn hội chúng tôi, giúp cho mưa thuận, gió hoà, 
		an cư, lạc nghiệp, nhà nhà yên vui.  
		Xin ông Nam Hải 
		cảm ứng chứng minh, đệ tử thành tâm xin một keo trở về sớm lo việc cúng 
		ông Nam Hải năm 2004, xin ông Nam Hải chứng minh.” 
		Khấn xong lạy ba lạy, xá ba xá, xin keo. Hai tay 
		nâng hai đồng tiền (giống nhau), ḷng thành khẩn buông hai đồng tiền rơi 
		tự do vào dĩa, đồng xấp, đồng ngửa là Ông đă chứng minh. Nhạc trỗi, lân 
		múa, đoàn tàu vui mừng, cùng nhau quay trở vào bờ thật sôi nổi, hào hứng. 
		Ngược lại, nếu xin keo chỉ xấp hoặc chỉ ngửa, ông chánh nguyện hương 
		phải thực hiện lại nghi lễ xin keo như ban đầu. Trong thời gian thực 
		hiện nghi lễ, đoàn tàu nghinh ông tất cả đều chậm lại thành khẩn chờ đợi 
		sự linh ứng chứng minh của Ông, đến khi nhạc trỗi, lân múa bầu không khí 
		chờ đợi lập tức bị phá vỡ, rộn ràng, náo nức hẳn lên. 
		Trong nghi chánh cúng (24 giờ ngày 16 tháng 6 al), 
		ngoài việc thực hành nghi lễ theo điển lệ, c̣n thực hiện đọc văn tế. Nội 
		dung bài văn như sau: 
		“Tứ nhơn tiết giới đáo lệ tế viên cẩn vĩ can lạp 
		sanh lệ hương đăng thanh chước thứ phẩm chi nghi, cảm chiếu cáo vu. 
		Sắc tứ quốc gia Nam Hải quyền phong Cự Tộc Ngọc Lân 
		Tôn Thần, Tả Lư Ngư chi vị, Hữu Lư Lực chi vị, ông Tiều, ông Gốc chi vị, 
		Hà Bá Long Vương chi vị, Thủy Long Thần Nữ chi vị, Tứ Hài Long Vương chi 
		vị, Đông Nam Sát Hải chi vị đẳng chư thủy tộc tôn linh đồng lai phối 
		hưởng. 
		Viết, 
		Cung di tôn linh hải hà dục tú, nhạc độc chư tinh 
		trấn hải ngoại hùng phong ngư hà đến thủy quản, thủy trung cự tễ ḱnh 
		ngạc khấu đầu biến hóa hiển vinh tế nhôn ư phong vơ chi trung, lai giảng 
		kinh phù cứu chúng du sa đào chi nội năi niên tải nguyện đơn tŕnh lệ 
		kiền cung hiến diện kỉnh thành ngưỡng lại tôn linh giáng phước bổn thôn 
		ấp da chi huệ dă. 
		Phục duy thượng hưởng”. 
		Đây là lễ hội của một 
		làng nghề, mà ở đó con người luôn đối mặt với đầu sóng, ngọn gió, phải 
		lênh đênh trên biển cả hàng tháng trời, họ không chỉ mưu cầu cuộc sống 
		cho bản thân và gia đ́nh ḿnh mà cho cả xóm giềng và cho toàn xă hội qua 
		những chuyến tàu đầy ắp cá lúc cập bờ. Và cứ như thế nối tiếp nhau, dần 
		tạo cho người dân làng chài một phong cách thoáng đạt, rộng mở, niềm tin 
		vào con người, vào thiên nhiên ngày càng sâu sắc hơn, sự cố kết giữa cá 
		nhân và cộng đồng ngày càng chặt chẽ hơn. 
		Điều đó cho thấy mục 
		đích của lễ hội không chỉ thoả măn niềm tin của con người đối với thế 
		giới siêu nhiên, mà qua đó c̣n giúp cho con người nhận diện ḿnh một 
		cách khách quan và chân thật hơn, chân thành và cởi mở hơn, đoàn kết và 
		thân yêu nhau hơn, nhu cầu và khả năng qua đó từng bước được giải quyết 
		thoả đáng, đời sống ngày một nâng cao, ... Nghinh ông cũng là dịp để 
		người dân làng nghề “bày tỏ với bàn dân thiên hạ” về sự phát triển không 
		ngừng của người “trong bổn hội thảy đều chung nguyện” và của sự “linh 
		ứng chứng minh”, của phong điều vũ thuận, vạn thọ vô cương, là kết quả 
		của ngư, mục, canh, tiều, sĩ, nông, công, thương, bá tánh nghinh tường, 
		cho an cư, lạc nghiệp cho nhà nhà yên vui. 
		Cùng với lễ hội kỳ yên 
		đ́nh làng, lễ hội nghinh ông tiếp tục cầu cho “...phong điều, vũ thuận; 
		quốc thái; dân an; cho vạn thọ vô cương; cho ngư, mục, canh, tiều, sĩ, 
		nông, công, thương, bá tánh nghinh tường, trong thôn ấp thảy điều thạnh 
		lợi; cho an cư lạc nghiệp, cho nhà nhà yên vui...”. Qua đó ta thấy tính 
		nhân văn, nhân đạo, tinh thần đoàn kết... tiếp tục được phát huy; niềm 
		tin- sức mạnh tinh thần được củng cố; giúp cho ngư dân nhận diện ḿnh 
		sau chu ḱ đánh bắt. Sau lễ hội, họ lại tiếp tục ra khơi bằng một niềm 
		tin mới, ước nguyện mới. 
		Ngày nay, trên cơ sở 
		giữ ǵn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống từng 
		bước được phục dựng, đă, đang góp phần tích cực vào việc xây dựng nền 
		văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Lễ hội nghinh ông 
		Bến Tre không chỉ thể hiện đời sống tâm linh của người dân địa phương 
		trong lao động đánh bắt hải sản mà c̣n làm phong phú cuộc sống tinh thần, 
		đem lại niềm vui cho nhân dân, góp phần làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. 
		   |