| 
	  
		SỰ TÍCH HỘI ĐUA GHE NGO KHMER NAM BỘ 
	 
	 
	Dân gian kể rằng, đã lâu lắm, cách đây bảy, tám trăm năm về trước, 
	ghe Ngo đã xuất hiện ở đồng bằng này. Lúc đó vùng này còn hoang 
	dại lắm, đất ẩm thấp, cây rậm rạp, có nhiều rắn rết và thú dữ... 
	Ông Prach – Chhum và Mom – Sun, nghệ sĩ Chom – Riêng đã từng hát câu 
	hát dân gian nhắc lại một đoạn bài hát rất mộc mạc về nguồn gốc 
	xuất xứ lịch sử ghe Ngo. Tôi xin tạm dịch nôm na: 
	 
 
		Ngày xưa đến ở nơi đây 
		Rừng đầy thú dữ rắn bò thi nhau 
		Đi lại trên chiếc cây Sao 
		Con thuyền độc mộc dềnh dàng trên sông... 
	 
	Con rắn bò nhanh và nhanh thật, nhất là trườn đi trên mặt nước. 
	Hình ảnh con rắn trườn đi trên mặt nước phản ảnh gần đúng hệt như 
	chiếc ghe Ngo, và chiếc ghe Ngo được tạo dáng giống như con rắn 
	thật. 
	 
	Chiếc ghe làm bằng cây Sao phải tổ chức đi đốn tận miền xa nơi 
	vùng núi cao mới có. Đốn xong dùng voi kéo xuống sông kết thành 
	bè thả theo dòng nước để trôi xuôi về. Các cụ truyền nhau kể lại: 
	hồi đó trên rừng lắm thú dữ, ở dưới sông cá sấu như bánh canh, 
	sấu con bò lên bè gỗ như nhái con. Mỗi lần đi thế nào cũng mất 
	năm bảy mạng cọp bắt, sấu nuốt. 
	 
	Xuất phát từ hình tượng rắn bò chúng sợ bén mạng thi nhau chạy 
	thoát thân khi người đến xục xạo khai phá đã đập vào mắt người 
	Khmer và tư duy sáng tạo ra chiếc ghe độc mộc này. 
	 
	Trải qua những năm tháng lớn lên của lịch sử thiên nhiên, phù sa 
	biển bồi đắp ngày một lớn dần. Nhiều sông ngòi do thiên nhiên tạo 
	ra, đổ nghiên theo chiều mặt bằng, việc đi lại rất khó khăn. Người 
	Khmer đến cư trú vùng này lúc đó chưa ổn định, người ta chưa đủ 
	sức đắp đường đi mà bắc cầu qua lại giao tiếp với nhau, hơn nữa 
	mang tâm lý sợ thú dữ nên cố tạo phương tiện đi lại bằng ghe độc 
	mộc dưới sông, đi có tập thể để đối phó với thú dữ. Từ ghe độc 
	mộc đơn sơ ấy. Sau này do yêu cầu tự vệ và chống chiến tranh giữa 
	các tộc người xung quanh, người Khmer nghĩ đến cách đục đẽo ra “tuk 
	ngo” để cho gọn nhẹ dễ bơi và bơi nhanh hơn. Hình thù ghe Ngo tựa 
	như con rắn mình thon thon thoai thoải về hai phía, đầu uốn cong và 
	thấp hơn đằng sau lái một chút. Ghe Ngo có chiều cong và có cây 
	đóng cặp chặt ở đáy nối dài từ đầu tới sau lái, trên cong đóng 
	nhiều thanh cây ngang, chiều ngang độ 1,20 m vừa để cho hai người 
	ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song song. Ghe Ngo thường có từ 46, 
	48 tới 50 chỗ cho người ngồi bơi và chỉ huy. Thân ghe người ta sơn 
	bằng màu đỏ với độ dày khoảng 5 cm, và hai bên be trạm trổ hoặc 
	vẽ vẩy rồng, rắn theo mô tiếp Naga. Đầu ghe vẽ các hình con thú, 
	như con chim công, con sư tử, con cọp, con voi... vừa tượng trưng cho vẻ 
	đẹp đồng thời biểu hiện cho sức mạnh của ghe mình. 
	 
	Vì ghe thân hình thon thon thắt dài kéo về hai phía, đầu và sau 
	lái đều cong, nên nếu bơi động tác phối hợp không ăn ý nghịp nhàng 
	rất dễ mất thăng bằng và bị lật chìm. Nên trước khi đưa xuống 
	nước, người ta tổ chức tập bơi cho nhuần nhuyễn động tác ở trên 
	cạn, sau đó mới đưa xuống tập bơi dưới nước. Người được chọn để 
	bơi phải là thanh niên trai tráng khỏe mạnh quen bơi và bơi có nghệ 
	thuật. Người bơi đã quan trọng, người ngồi đầu đánh đều đưa nhịp 
	xòe tay ra chỉ huy qua từng nhịp lướt sóng, người đứng giữa đánh 
	cồng thúc giục đưa nhịp động viên và người cầm lái lại càng quan 
	trọng hơn. Người ngồi đầu chỉ huy được chọn từ những người có uy 
	tín và thông tạo về môn đua ghe Ngo. Công dụng ghe Ngo thời ấy được 
	coi như là một môn thể thao quân sự. Lúc có giặc, lúc thời bình 
	ghe Ngo được dùng để đua vui chơi giải trí biểu dương sức sống văn 
	hóa của dân tộc vào ngày lễ Oc – om – bóc vào rằm tháng 10 theo âm 
	lịch Khmer (xê xích ít ngày, ngày rằm tháng 10 âm lịch Việt). Vì 
	âm lịch Khmer trong một năm nhiều tháng, có ngày thiếu và một năm 
	thiếu tới 11 ngày, nên không vào những ngày tháng dương lịch. Nhưng 
	ngày hội đua ghe Ngo có nằm trong các ngày tháng 11 dương lịch. Từ 
	xa xưa hàng năm cứ đến ngày rằm tháng 10 âm lịch dân tộc đồng bào 
	Khmer tổ chức lễ cúng trăng Oc – Om – boc. Vào đêm ngày rằm này, 
	trăng tròn đẹp, gió bấc thổi nhẹ, thời tiết mát mẻ, lúc này lúa 
	đã no hạt và lốm đốm chín, người ta cắt những bông lúa chín đầu 
	mùa đem về đâm cốm dẹp, tổ chức cúng trăng. Người Khmer có ý niệm 
	về trăng, tôn thờ trăng coi trăng tượng trưng cho niềm ước mơ đẹp 
	nhất và đem đến cho con người cuộc sống no ấm hạnh phúc, nhất là 
	đối với tuổi trẻ. Vào những ngày tháng này họ rủ nhau ra trước 
	sân nhà và đi trên con đường làng ngắm trăng, tắm trăng, đồng thời 
	cũng là dịp con trai gái tâm sự tỏ tình. 
	 
	Người Khmer vốn sống bằng nghề trồng lúa nước. Trồng lúa nước 
	ngày xưa rất khó khăn, tai họa thiên nhiên thường xảy ra luôn, có khi 
	trồng xong lúa bị gió mưa, lụt lội cuốn trôi hết, nên việc đấu 
	tranh chinh phục thiên nhiên bằng cách đắp bờ ngăn mặn giữ người 
	nước ngọt, chọn giống lúa để sinh trưởng phù hợp với đất và 
	thời tiết. Từ đó, mùa vụ đầu tiên không bị gió mưa tai họa thiên 
	nhiên hủy hoại, lúa bụi to, trỏ đều, no hạt, được gặt hái thu 
	hoạch tốt đẹp vào những ngày tháng nói trên. Nên lễ “Óc-om-boc” 
	mang ý nghĩa mừng cơm mới vào những ngày trăng sáng, mưa gió chấm 
	dứt, nước từ từ rút xuống, mở đầu cho một mùa khô ráo sau những 
	ngày tháng lao động vất vả. 
	Người ta cúng trăng vào đầu hôm ngày rằm lúc trăng vừa ló dạng. 
	Cách cúng, người ta đem ra trước nhà một cái bàn tròn hoặc vuông 
	tùy ý, trãi phủ lên một tấm vải màu đẹp, chưng lên đó một bình 
	bông thật trang trọng. Sau đó người ta bưng mâm cúng lên đó, gồm đĩa 
	cốm dẹp, chuối chín, dừa tươi vạt vỏ, khoai môn, khoai mì, mía, ... 
	Ông bà gọi con cháu quy tụ lại, trãi chiếu quây quần ngồi xếp 
	bằng về một phía chắp tay vái hướng về mặt trăng . Khi cúng xong, 
	ông hoặc bà nắm một nắm cốm dẹp gọi từng đứa con cháu lên và 
	đút cốm dẹp vào miệng cho từng cháu và hỏi: cháu muốn gì? Có 
	cháu trả lời : cháu ước mơ kiếp sau muốn có thật nhiều vàng, bạc, 
	châu báu, ngọc ngà, trâu bò, voi, ngựa ... có cháu trả lời : cháu 
	ước mơ kiếp sau có vợ thật đẹp và giàu sang phú quý, một em gái 
	nhỏ nhất trả lời câu hỏi rất ngây thơ: con chỉ mơ có nhiều cốm 
	dẹp ăn hoài ... Sau khi cúng xong, ông bà bưng mâm cúng xuống gọi cả 
	nhà ra ngồi quây quần cùng nhau ăn vui vẻ. Người Khmer gọi lễ này 
	là lễ Óc-om-boc. 
	 
	Theo phong tục cổ truyền của dân tộc, để phục vụ ngày vui này, 
	người ta tổ chức thi và chơi các trò chơi dân tộc như ném còn, kéo 
	co, đấu võ, đua thuyền và biểu diễn văn nghệ,... Đặc biệt môn đua 
	ghe Ngo và biểu diễn băn nghệ là hai môn được đồng bào ưa thích 
	nhất. Nói đến Óc-om-boc, người ta bàn tán với nhau rất sôi nổi về 
	ghe Ngo. Để tham gia vào cuộc đua ghe này, các địa phương thi nhau tu 
	sửa, trang trí lại ghe của mình cho thật chắc và đẹp. Có nơi tu 
	sửa xong họ tổ chức tập dượt cả tháng trước. Thanh nhiên nam nữ 
	mua sắm quần áo mới để chuẩn bị đi chơi hội và xem đua ghe Ngo. 
	Ngày xưa có lẽ cách đây hàng trăm năm về trước, vào ngày lễ 
	Óc-om-bóc hàng năm, người Khmer thường tổ chức đua ghe ở 
	Peam-kên-thô, tức là Vàm Tho, thuộc huyện Mỹ Xuyên ngày nay. Ở đó, 
	ghe Ngo của các nơi từ vùng Bạc Liêu lên, các vùng Kiên Giang xuống 
	đều thuận tiện, vì ở đó có một đoạn sông thẳng, dòng nước chảy 
	đều, trên bờ có chợ búa, dân chúng cất nhà ở đông vui. Những 
	người đến xem đua ghe lúc đó thường là đi bằng ghe “Ca hâu” (tức ghe 
	bầu) và ghe “Ca chai” (tức ghe tam bản) đậu dọc hai bên bờ, họ đem 
	theo nồi nêu, bếp củi tự nấu ăn. Sau này, khi Tây vào, chúng bắt 
	phải dời điểm đua từ Vàm Tho về sông Ompuyea, tức là sông Nhu Gia, 
	xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên bây giờ. 
	 
	Trong thời kỳ Mỹ Ngụy, điểm đua ghe Ngo hàng năm được đời từ Nhu 
	Gia về đua ở Kinh Xáng – Thị xã Sóc Trăng. Sau ngày miền Nam hoàn 
	toàn giải phóng, điểm đua ghe Ngo được đưa trở lại ở Nhu Gia và tổ 
	chức chu đáo hơn. Mấy năm đầu cuộc đua ghe Ngo vào ngày “Óc-Om-bóc” 
	được tổ chức ở Nhu Gia cũng rất vui, vui gấp trăm lần hơn so với 
	các chế độ trước đây, nhưng vẫn chưa thỏa mãn đáp ứng theo nguyện 
	vọng của khán giả. Để biểu hiện sự trân trọng và đáp ứng theo 
	yêu cầu của quần chúng, và để tạo điều kiện cho mọi người đến 
	xem dễ dàng, đông vui, ăn ở thuận lợi và thoải mái hơn, cuộc đua 
	ghe Ngo lại được đưa trở lại tổ chức tại Sóc Trăng. Từ đó cứ đến 
	ngày rằm tháng 10 âm lịch dân tộc cuộc đua ghe Ngo lại tái diễn ở 
	Kinh Xáng thị xã Sóc Trăng (tức TP. Sóc Trăng ngày nay). Ở trung tâm 
	thị xã Sóc Trăng vào những ngày ấy – trước ngày đua ghe một đêm, 
	người từ khắp nơi đổ về như nước đổ về nguồn, và đêm hôm ấy, 
	người đông chật không còn đường đi nữa. Các loại xe phải dừng lăn 
	bánh. Đêm đó được gọi là một đêm không ngủ. Ở dưới sông ánh đèn 
	rực sáng như hội hoa đăng. Từng cụm ghe Ngo tập kết là từng cụm 
	hoa sáng. 
	 
 
		Tiếng trống Chhay dăm đối đáp nhau 
		Tiếng sáo đối lại xé bầu trời 
		Nhạc romvoong đua đưa nụ cười 
		Nam nữ múa hát, từng đôi mặn mà 
	 
	Và các đoàn dù kê cũng say sưa diễn suốt đêm. Mãn lớp này chuyển 
	sang lớp khác. Khán giả cứ lũ lượt kéo vào rồi lại kéo ra như 
	thay ca nhau vậy. Đường Giữa là đường mạch thị xã chứ đừng hòng 
	ai mà qua nổi: 
	 
 
		Ôi đẹp sao những đôi trẻ, 
		Kề vai nhau trổ nụ cười. 
	 
	Sáng hôm sau mới thật là một ngày sôi nổi. Các ghe đua bắt đầu 
	vào chung cuộc đọ sức thi tài. Hai bên bờ sông kéo dài trên cây số, 
	hàng trăm người đứng chật ních không một khoảng trống, biển người 
	như sóng lượn rực rỡ màu sắc như một vườn hoa. 
	 
	Rất đáng vinh dự tự hào, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác Hồ 
	năm 1990, Đảng – Nhà Nước đã tổ chức Hội văn hóa thể thao các dân 
	tộc, ghe Ngo cũng được đưa lên đua ở tại Bến Nhà Rồng – sông Bạch 
	Đằng – TP.HCM để giới thiệu với khán giả Thành Phố – khán giả cả 
	nước đã gây tiếng vang lớn cho môn thể thao dân tộc này. 
	 
	Năm nay tỉnh Sóc Trăng tổ chức vào dịp lễ cúng trăng “Óc-om-bóc” 
	sẽ đem lại niềm vui lớn cho mọi người. 
	 
	Nhờ tạo được điều kiện thuận lợi hơn, nên người xem đến đông hơn. 
	Các khán giả đến xem không chỉ gồm những người trong Tỉnh mà 
	khách các tỉnh xa đến xem cũng nhiều. Không phải chỉ người Khmer 
	thích xem đua ghe Ngo mà người Việt, người Hoa cũng hâm mộ. Lượng 
	người xem so với những năm trước tổ chức ở tại Nhu Gia đông vui hơn 
	nhiều. 
	 
	Có những nơi do địa lư thiên nhiên bất lợi, ít có con sông và thuận tiện, 
	đồng bào không sắm ghe Ngo, nhưng họ vẫn giữ truyền thống phong tục ngày hội 
	đua ghe Ngo và lễ Óc-om-bóc của dân tộc. Họ tổ chức đua ghe theo quy mô nhỏ 
	bằng chiếc ghe con hoặc bằng bơi giả trên cạn, bằng cách ngồi hoặc đứng xếp 
	h́nh theo h́nh tượng ghe Ngo, trên mặt nước lấy điểm chuẩn chấm bằng nhịp 
	bước, động tác bơi tay đưa dầm lên xuống, kỹ thuật bơi đều, khỏe mạnh, nhịp 
	nhàng và đẹp… cũng vui, hấp dẫn và sôi nổi. H́nh tượng ấy, nay đă được cách 
	điệu đưa lên sân khấu nghệ thuật, bổ sung cho nền múa dân tộc Khmer thêm 
	phong phú và đa dạng. 
	 
	Rơ ràng cuộc đua ghe Ngo hàng năm quy tụ ở Sóc Trăng đă trở thành ngày hội 
	chung của ba dân tộc Khmer-Việt-Hoa, làm cho mối quan hệ cộng đồng các dân 
	tộc ở khu vực ngày càng gần gũi nhau về tâm lư, t́nh cảm, đoàn kết gắn bó 
	nhu hơn trong lao động sản xuất, xây dựng đất nước, đấu tranh bảo vệ cuộc 
	sống và xây dựng hạnh phúc chung của cộng đồng. 
	(ST)    Nguồn: Vietnam Eductourism  |