Home T́m Ca Dao Diễn Đàn T́m Dân Ca Phổ Nhạc T́m Câu Đố T́m Chợ Quê Góp Ư Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

 

Hội Phủ Giầy

 

Hàng năm vào thượng tuần tháng 3 âm lịch, chính hội là 3/3, du khách thập phương nô nức hành hương về với Hội Phủ Dày, nơi thờ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh, người Mẹ linh thiêng của dân tộc Việt Nam. Tục thờ Đức Thánh mẫu có ở khá nhiều nơi như Phố Cát (Thanh Hóa), Đền Ṣng (Nghệ An)... Nhưng có lẽ tại xă Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (nơi Mẫu sinh) là thu hút khách thập phương hơn cả.

vcf_phugiay1.gif (17869 bytes)Du khách trảy hội Phủ Dày vừa để dự ngày giỗ Mẹ, vừa để thỏa nguyện tâm linh và được ngắm nh́n một quần thể kiến trúc lăng chùa truyền thống vô cùng độc đáo. Hội Phủ Dày thực sự hấp dẫn khách bởi sự đan xen, ḥa quyện giữa những nghi thức trang trọng cùng những hoạt động văn hóa dân gian sôi nổi, đặc sắc. Tiêu biểu nhất trong hội Phủ Dày là nghi lễ rước Thánh Mẫu từ phủ chính (Tiên Hương) lên chùa Gôi vào ngày 6/3. Đám rước Thánh Mẫu dài gần 1 km, rất trang trọng có đội ngũ nhạc, có phường bát âm. Đến ngày 7/3  sinh hoạt văn hóa "Hoa trượng hội". Đây là nét độc đáo nhất của lễ hội. Mỗi lần xếp chữ cần khoảng 100 phu cờ, mặc đồng phục, chít khăn đỏ, áo vàng, thắt lưng xanh, quần trắng, xà cạp đỏ. Mỗi người cầm cây gậy dài khoảng 2 mét. Người điều khiển gọi là tổng cờ. Vào cuộc chủ lễ xin Mẫu "ra chữ" sau đó theo nhịp trống chiêng rộn ră xếp thành những ḍng chữ nho đầy ư nghĩa.

Hoà trong không khí sinh hoạt văn hóa dân gian, du khách c̣n được xem rước thỉnh kinh, rước kiệu bát cống long đ́nh, xem múa rồng hội trên núi Tiên Hương.... Và khi màn đêm buông xuống, du khách sẽ được đắm ḿnh trong những điệu Chầu văn tha thiết cùng những đèn trời được thả lung linh sắc mầu huyền ảo. Về với Hội Phủ Dày, du khách như được trở về với cội nguồn dân tộc, bởi nơi đây quy tụ rất nhiều những tinh hpoa văn hóa ngàn đời của dân tộc ta. Và đó c̣n là một nhu cầu của vẻ đẹp tâm linh trong những ngày đầu năm mới. 

 

 

Hội phủ Giầy (Hà nam)


Phủ Giầy có tên cổ là Kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được sắc phong công chúa th́ được gọi là Phủ. Thực ra ở phủ Giầy có một hệ thống kiến trúc liên quan tới Liễu Hạnh, đó là phủ chính, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu.

Phủ chính là một kiến trúc khá qui mô, gồm ba lớp điện thờ, mặt đều quay về hướng nam, trước điện là giếng tṛn và cột cờ, trên sân rộng phía trước có xây các nhà bia, nhà trống, nhà chiêng, kiến trúc kiểu bốn mái hai lớp. Chúa Liễu và hệ thống Tứ Phủ được thờ ở ṭa điện trong cùng, Mẫu Thượng Thiên hóa thân thành Liễu Hạnh thờ ở trung tâm, bên trái là Mẫu Thoải, bên phải là Mẫu Địa, phía trước là Mẫu Thượng Ngàn (Nhạc Phủ).

Tại làng Vân Cát, cách không xa phủ Giầy có kiến trúc phủ Vân Cát. Phía trước đền có hồ bán nguyệt, nối với bờ bằng cầu đá, chạm trổ rất công phu. Phủ Vân có Ngũ Môn và bốn cung, trung tâm thờ Chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải thờ Lư Nam Đế.

Lăng Chúa Liễu nằm gần phủ Chính, được dựng bằng đá, kiến trúc công phu và rất đẹp, độc đáo, xây dựng vào những thập kỷ của nửa đầu thế kỷ này. Trung tâm lăng là ngôi mộ h́nh bát giác, mộ ở thế đất cao, có bốn cửa và bậc thang lên xuống. Xung quanh mộ, c̣n có tường vây quanh theo kiểu lan can đá, lớp nào cũng có cửa vào ở bốn phía. Bốn góc của lớp tường vây quanh và hai trụ cửa ra vào đều chạm đá h́nh nụ sen (60 nụ sen) lô nhô như một hồ sen đá.

Ngoài hai phủ chính và lăng kể trên, xung quanh phủ Giầy c̣n có nhiều đền miếu bao quanh, như đền Khâm Sai, đền Công Đồng, đền Thượng, đền Quan, đền Đức Vua, đền Giếng, đền Cây Đa, đ́nh Ông Khổng... Tất cả quần thể kiến trúc ấy gần như tập trung trong phạm vi xă Kim Thái, xưa là xă An Thái, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, cách thành phố Nam Định khoảng 15 km. Đó là vùng đồng bằng với những cánh đồng lúa bát ngát, có những ngọn núi đá thấp nằm rải rác, làng mạc trù phú, có ḍng sông hiền ḥa uốn khúc quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa rất nên thơ.

Người ta tin rằng Bà Chúa Liễu vốn là con gái của Ngọc Hoàng, v́ phạm lỗi nên bị đầy xuống trần gian, thác sinh vào nhà họ Lê. Khi cất tiếng khóc chào đời, bố mẹ đặt tên là Giáng Tiên, tới năm 18 tuổi th́ gả chồng. Lấy chồng mới được ba năm th́ hết hạn đầy bị gọi về trời. Nhưng v́ nhớ chồng con, Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở về hạ giới. Lần này trở lại, nàng thích vân du khắp nơi, gặp danh sĩ Phùng Khắc Khoan và họa thơ với ông ở Lạng sơn và Hồ Tây, sau lại kết duyên với một thư sinh ở xứ Nghệ và giúp cho chồng đỗ đạt làm quan. Vừa lúc đó nàng lại có lệnh về trời. Trái lệnh vua cha, một lần nữa nàng lại giáng sinh. Lần này nàng không ở một nơi mà cùng hai thị nữ chu du thiên hạ. Thấy vùng Phố Cát là nơi phong cảnh đẹp, nàng hiển linh thành cô gái bán nước ven đường để trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người hiền. Triều đ́nh nhà Trịnh lúc đó cho là yêu quái nên đem quân, dùng pháp thuật để trừ. Hai bên đă dàn quân đánh nhau, đó là "Sùng Sơn đại chiến".

Do lập mẹo quân triều đ́nh có cơ thắng, nhưng vừa lúc đó đức Phật ra tay, giảng ḥa, cứu Liễu Hạnh. Nàng được triều đ́nh phong thần là Nữ Hoàng Công Chúa rồi Chế Thắng Đại Vương. Từ đó Liễu Hạnh công chúa không gây kinh sợ cho mọi người, mà luôn luôn ban phát ân đức, được nhân dân tôn thờ là Thánh Mẫu.

Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ

Đó là câu nói cửa miệng của bất cứ người Việt nào dù họ sinh sống trên quê hương hay đă tha hương nơi đất khách quê người. Trong tâm thức dân gian, vui Hùng là ông Tổ, nên "Dù ai đi ngược về xuôi nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba", c̣n Liễu Hạnh là Mẫu (Mẹ), Trần Hưng Đạo là Cha, cả dân tộc coi cộng đồng ḿnh như một gia tộc, có tổ tiên, cha mẹ.

Tháng ba, vào cuối tiết xuân, những người nông dân đang buổi nông nhàn, rủ nhau mở mùa trảy hội. Từ muôn nơi người ta đổ về phủ Giầy, nơi có phong cảnh non nước tươi đẹp, công tŕnh đền miếu nguy nga, nơi con người có thể cầu mong Mẫu mang lại những điều tốt lành, may mắn, tài lộc. Trong mười ngày hội phủ, người về dự tính tới hàng vạn, đứng trên non Gôi nh́n xuống, ḍng người trảy hội rực rỡ áo quần, từ muôn ngả đổ về, trườn đi từ từ như con rồng uốn khúc trên thảm lúa xanh non đang th́ con gái.

Xưa kia, hội phủ kéo dài trong mười ngày bắt đầu từ 30 tháng hai. Ngày đầu hội là nghi thức cúng tế, ngày cuối hội rước Thánh Mẫu, ngoài ra c̣n có các tṛ vui chơi dân dă khúc. 30 tháng hai và mồng một tháng ba là ngày dành cho dân làng tế kỵ, từ ngày mồng ba trở đi là ngày quốc tế, ngày tế của các quan chức hàng tỉnh, hàng huyện. Xưa, quan tổng đốc hàng tỉnh vào làm chủ tế, rồi đến quan tri huyện cùng với chánh, phó tổng cũng vào chủ tế hàng huyện và hàng tổng. Nghi thức tế lễ cũng giống như nhiều cuộc khác, có các tuần dâng hương, dâng hoa, dâng rượu...

Tiêu biểu nhất trong hội phủ Giầy là nghi lễ rước Thánh Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi vào ngày mồng 6 và hội kéo chữ vào ngày mồng 7. Kiệu rước bát nhang Thánh Mẫu phần lớn do các bà, các cô đảm nhận, y phục rực rỡ, xúm xít dưới kiệu vàng, vơng điều, cờ quạt, tán, lọng, phướn đủ màu rực rỡ tung bay trước gió lồng lộng vào tiết cuối xuân, đầu hè. Theo đoàn rước c̣n có đội nhă nhạc, bát âm. Các cô gái đồng trinh của đồng quê được cử vào khiêng long đ́nh, rước vơng, khiêng kiệu, che tán, che quạt, các bà trung niên th́ cầm phướn, vác cờ, dẹp đường. Đoàn rước tiến bước giữa tiếng loa thét, rừng cờ phướn tung bay trong đoàn thiện nam tín nữ đi trẩy hội.

Nghi thức rước Thánh Mẫu giữa phủ thờ và chùa không phải chỉ diễn ra ở phủ Giầy, nó phản ánh thực tế có sự giao kết giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo. Trong huyền thoại về Chúa Liễu, trận Sùng Sơn thể hiện sự xung đột giữa Chúa Liễu và triều đ́nh phong kiến, sau đó phải cần tới sự cứu giúp và can thiệp của đức Phật. Tương truyền, chúa Liễu sau đó đă nhận mũ áo nhà Phật, noi theo Phật, chỉ làm việc thiện ban phát ân đức. Hiện nay, trong nhiều ngôi chùa thờ Phật Việt Nam đều có điện thờ Mẫu, theo kiểu tiền Phật hậu Mẫu. Sinh hoạt tín ngưỡng Mẫu trở thành một bộ phận của sinh hoạt nhà chùa.

Ngày 7 tháng ba là ngày hội kéo chữ, nét độc đáo nhất của hội phủ Giầy. Theo lời kể của nhân dân địa phương th́ sự tích hội kéo chữ như sau:

Thời hậu Lê ở thôn Đông Khê, tổng Đồng Nội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có một người kỹ nữ tài sắc tuyệt vời, đó là Phùng Thị Ngọc Đài. Sau khi lấy lẽ hết ông Quận Công Ngà, đến quận Công Hiển, Ngọc Đài trở về ở xă Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản là nguyên quán của ông Quận Công Hiển. Năm 1623 vua Lê Thần Tông phong chức Thành Đông Vương cho chúa Trịnh Tráng, chúa ra lệnh mở tiệc ăn mừng, cho tuyển nhiều ả đào đẹp ở các địa phương tiến dẫn về Thăng Long để múa hát mua vui trong bữa tiệc.

Ngọc Đài tuy đă góa chồng, nhưng nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm, nên lần đó nàng cũng xin đi ứng tuyển. Trước khi lên đường, nàng đến phủ Giầy qú trước bàn thờ Thánh Mẫu và cầu khẩn: "nếu lần này đi mà được vua yêu, chúa dùng th́ không bao giờ quên Mẫu, xin hứa làm cái ǵ để ghi nhớ Mẫu măi măi về sau". Quả nhiên, lời cầu xin của Ngọc Đài được ứng nghiệm. Trong bữa tiệc, biết bao ca kỹ dung nhan tuyệt vời, giọng hát hay mà chúa Trịnh Tráng chỉ say đắm một ḿnh Ngọc Đài. Sau bữa tiệc, nàng được vời vào dinh, được chúa sủng ái và phong cho chức Vương Phi.

Thời kỳ Ngọc Đài làm Vương Phi trong phủ chúa th́ cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn nổ ra dữ dội hơn, chúa Trịnh ra lệnh bắt phu về Thăng Long xây dựng hệ thống pḥng thủ kiên cố, pḥng chúa Nguyễn tấn công.

Trong số phu bị bắt về Thăng Long, có những người quê ở Vụ Bản. Bà Vương Phi biết tin này nên t́m cách cứu giúp dân phu của quê hương bản quán ḿnh, nên đă mật báo cho dân phu khi về tới Kinh chỉ mặc áo rách và ăn cháo cám mà thôi. Một hôm chúa và cung phi cùng đi thị sát dân phu, chúa thấy đám phu ngồi ăn cháo cám. Chúa hỏi mới biết là người Vụ Bản. Nhân lúc đó, Vương Phi tỏ ra buồn rầu, khiến chúa Trịnh vặn hỏi. Khi được biết dân phu đó chính là người cùng quê với Vương Phi, chúa Trịnh tức khắc ra lệnh miễn phu cho họ, cấp lương thực, quần áo về quê quán làm ăn, sinh sống. Hơn thế nữa, chúa c̣n cấp lương thực vải vóc cho toàn bộ dân làng Bảo Ngũ, làng Vương Phi đă ở trước khi vào cung. Ghi nhớ công đức đó, nay dân làng thờ Vương Phi là Thành Hoàng làng.

Sau khi nhận được gia ân của chúa Trịnh, Vương Phi muốn làm điều ǵ đó để lại ghi nhớ sự phù trợ của Thánh Mẫu nên dặn dân làng phủ Giầy là cứ sau ngày rước Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi, th́ dân làng đem xẻng, cuốc, mai, thuổng đến trước phủ Giầy vứt ngổn ngang xuống đất, tỏ ư nhờ linh ứng của Thánh nên dân làng không phải chịu cảnh nhọc nhằn phu phen, rồi xếp người thành hai chữ "Cung tạ".

Từ đó về sau, năm nào cũng có tục kéo chữ. Trước kia, hàng năm cứ tới ngày này mỗi tổng trong huyện Vụ Bản góp 10 phu cờ tuổi từ 20 tới 35 tới dự hội. Cả huyện có mười tổng, gộp thành 100 phu cờ. Ngoài ra c̣n có một số tổng khác, như Mỹ Lộc, B́nh Lục, nhưng văn nhớ tục cũ, cũng góp thêm người vào cuộc hội này.

Phu cờ ăn mặc đồng phục, áo cánh vàng quần trắng, đầu đội khăn đen, có phủ dải lụa ṿng ra ngoài, đi chân đất. Mỗi người c̣n vác một cây gậy dài bốn, năm thước, trên đầu gậy buộc một cái ngù bằng lông gà các đốt gậy đều dán ṿng giấy mầu xanh, đỏ có tua. Chỉ huy toàn bộ những phu cờ là Tổng cờ.

Đoàn phu cờ hẹn tập trung tại một địa điểm nào đó, rồi lần lượt theo chỉ huy của Tổng cờ đi hàng đôi tiến vào khoảng đất rộng trước Phương Du của phủ Chính. Khoảng trưa, có lệnh Tổng cờ cho phu cờ chuẩn bị đến giờ xếp chữ (ngả chữ). Giữa tiếng trống cái, trống con gơ liên hồi rộn ră, theo cờ lệnh trong tay Tổng cờ, các phu cờ tiến lùi đứng lên, ngồi xuống thành h́nh chữ. Khi ngồi xuống, các phu cờ vứt gậy xuống đất, như mô phỏng lại tục vứt cuốc xẻng xưa của dân phu trước đền Thánh Mẫu. Việc xếp chữ ǵ do những người tổ chức hội hàng năm qui định, nhưng thường là "Mẫu Nghi Thiên Hạ" (Đức mẹ của muôn dân), "Thiên hạ thái b́nh", "Thạch cập sinh dân" (1938), "Vân hành vũ thi" (1939).

Nói tới hội phủ Giầy ngày giỗ Thánh Mẫu không thể không nói tới h́nh thức hát văn và hầu đồng. Đây là h́nh thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu. Xưa, trong những dịp này, trong và ngoài đền phủ Chính, phủ Vân Cát, người ta tổ chức hát văn chầu và cùng với nó là lên đồng. Đây là h́nh thức diễn xướng tổng hợp giữa âm nhạc, hát, thờ cúng, nhảy múa. Ban văn chuyên tấu nhạc và hát văn chầu theo làn điệu và bài bản riêng, sao cho phù hợp, ăn khớp với người lên đồng. Hát văn có làn điệu riêng, độc đáo, nhưng trong đó cũng thu hút nhiều h́nh thức dân ca khác, như ca trù, trống quân, quan họ, cải lương... Người lên đồng để cho hồn các thần linh của tín ngưỡng Tứ Phủ nhập vào thân xác ḿnh, rồi làm các nghi lễ trước bàn thờ, ăn mặc, nhảy múa, phán truyền theo tư cách và địa vị của thần linh ấy. Đó là các vị thần thuộc hàng các Thánh Mẫu, Quan lớn, các Chầu, các ông Hoàng, các Cô, Cậu... Xưa kia, trong các ngày hội h́nh thức lên đồng bị lợi dụng, mang nặng tính mê tín, buôn thần, bán thánh, nên ngày nay bị chính quyền đia phương hạn chế nhiều.

Trong những ngày hội, nhân dân c̣n tổ chức nhiều h́nh thức vui chơi khác như xem hát tuồng, hát chèo, trống quân, kể cả hát xẩm, ca trù, các h́nh thức thi đấu mang tính thượng vơ, như vật, múa vơ, kéo co, đánh cờ, chọi gà...

Ngoài các nghi thức tế, rước sách, kéo chữ, xem biểu diễn... hội phủ Giầy c̣n là ngày hội Chợ. Nơi đây trong ngày hội, người ta bày bán các sản phẩm của địa phương, người đi xem thường là tiện dịp mua sắm thêm vài thứ vật dụng trong ngày hội. Hội không chỉ là sự thể hiện đời sống tâm linh, thưởng thức sinh hoạt văn hóa mà c̣n thúc đẩy hoạt động kinh tế, thương mại.

Các mặt hàng bày bán thật đa dạng, phong phú, từ cái kim sợi chỉ, chiếc cần câu, lưới, vó, dậm, nơm để đánh bắt cá. Các loại giường, tủ, bàn, ghế sản phẩm của làng mộc La Xuyên kề cạnh, các loại giầy, dép, các loại đồ đan, áo tơi. Các mặt hàng sơn mài của phủ Giầy vốn có tiếng từ lâu, các loại gỗ khảm trai, các bức hoành phi, câu đối cũng được bán ngoài chợ trong ngày hội.

Nói tới đi hội không thể không thưởng thức các món ăn, nhất là các món đặc sản địa phương mà ở phủ Giầy nổi tiếng là món thịt ḅ tái, tương gừng, rất hợp vị với tiết trời tháng ba.

Vui hội như vậy, nên người nào đă trẩy hội phủ Giầy một lần là c̣n muốn đến nữa:

C̣n trời c̣n nước c̣n non
Mồng năm rước Mẫu ta c̣n đi xem
Ai về nhắn chị cùng em
Bảo nhau dắt díu di xem hội này.


Nguồn: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

***

Phủ Dày - lung linh huyền thoại

Điều kỳ lạ là trong các đền đài miếu mạo, người ta tôn thờ, hoặc là thờ nhân thần - những người có công với đất nước, hoặc là thờ thiên thần, được coi là các bậc linh thiêng màu nhiệm trở che cho dân chúng. Nhưng ở Phủ Dày thờ bà Liễu Hạnh, một vị thánh linh mang cả hai màu sắc thực và ảo.

Bà Liễu Hạnh theo như các sách, truyện hoặc thần phả c̣n chép lại, bà sinh năm Đinh Tỵ (1557), triều vua Lê Anh Tôn, tháng Th́n (tháng 3), ngày Dần, giờ Dần (Khoảng 5 giờ sáng ngày mồng con ông Lê Công Chính và bà Trần Thị Phúc, tại làng Vân Cát. Năm 18 tuổi lấy chồng là Đào Long ở làng Tiên Hương, kế ngay làng Vân Cát. Năm 21 tuổi không bệnh mà mất, để lại một con thơ. Ngày nay hai làng Vân Cát và Tiên Hương đều lập phủ thờ bà.

Bao trùm lên các sự thật đó, là các huyền thoại đan xen. Nào là trước khi bà Liễu Hạnh chào đời, Lê Công mơ thấy có thiên sứ áp dẫn ông về trời. Tại đây, ông chứng kiến cảnh nàng Quỳnh Nương tiên chúa làm vỡ chén ngọc, bị Ngọc Hoàng đẩy xuống cơi trần 21 năm. Sinh con, Lê Công đặt tên là Lê Thị Thắng. V́ ứng với điềm trong mộng, Lê Công mang hiệu Giáng Tiên (tiên giáng trần).

Tiếp đó là các huyền thoại hiển linh của bà. Nào là bà giúp nhà Trịnh dẹp giặc. Nào là hội kiến với trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan), nhân chuyến ông đi xứ Trung Quốc về tới địa đầu tỉnh Lạng Sơn. Và việc ông dựng tại đó ngôi Minh Thiên tự phủ thờ bà. Rồi ở phố Cát huyện Thạch Thành, Thanh Hoá và cả ở trong Huế cũng có đền Ngọc Trân do bà Quốc Thái dựng lên thờ bà Liễu Hạnh. Độc đáo hơn cả là làng Tây Hồ - Hà Nội, cũng có một phủ thờ bà Liễu Hạnh. Trong phủ c̣n trạm khắc cả một bài thơ do cuộc du ngoạn tao phong giữa trạng Bùng với bà.

Chuyện kể rằng, nhân một bữa Phùng Khắc Khoan cùng hai bạn thơ đang bơi thuyền ngắm trăng hồ Tây, bỗng gặp một cô gái đi chiếc thuyền nhỏ. Ba người hỏi chuyện và cùng nhau làm thơ sướng hoạ. Cảm kích, 3 người định mời cô lên bờ đàm đạo th́ thuyền nhỏ lẫn vào sương mù biến mất. Trong lúc mọi người c̣n đang ngơ ngác, chợt có một làn gió nhẹ làm bay tới một tờ giấy màu hồng, nhặt lên xem th́ có một bài thơ như sau:

Vân tắc y thường phong tác xa
Triệu du đâu xuất mộ yên hà
Thế nhân dục thức ngô danh tính
"Nhất đại sơn lâm Ngọc Quỳnh hoa"

Dịch nghĩa:

Mây làm xiêm áo, gió làm xe
Sớm dạo cơi thanh tịnh, tối chơi yên hà
Người trần thế muốn biết họ tên ta
một đời trên non với hoa Ngọc Quỳnh.

"Người trên non" là chữ "tiên" do hai chữ nhân (người) và chữ sơn (núi) ghép lại. Hai chữ Ngọc và chữ Quỳnh ghép lại chữ Quỳnh. Cả bốn câu có nghía là: "Tiên Quỳnh Hoa".

Có ở nơi đâu xứ sở này, hiện thực và huyền thoại quấn quít bên đan xen như một bài thơ làm đẹp thêm cho đời. Nếu tước đi phần huyền thoại, mà người ta gán cho cái tên "mê tín" hoặc "dị đoan", thị sự tích bà Liễu Hạnh trần trụi quá. Và nếu như có tước đi cái phần ảo đó, ta vẫn c̣n được một thắng cảnh Vân Cát – Tiên Hương đáng cho đời chiêm ngưỡng. Ta cũng c̣n được những ngày vui hàng năm với hàng trục vạn trai thanh gái lịch dập d́u chảy hội và từ đó bồi đắp thêm cho cuộc sống trần gian ngắn ngủi, cho ngày xuân của ta chắp cánh bay lên. Nhưng thử hỏi mất đi phần huyên thoại, nhân loại c̣n là nhân loại nữa không.

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Kỹ Thuật Truy Tầm

Hoàng Vân

Sưu tầm Nhạc Dân Ca

Julia Nguyễn
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/24/16