| 
          
		
						
						
						Hội phủ Giầy (Hà nam) 
						 
						 
						
						
						Phủ Giầy có tên cổ là Kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được 
						sắc phong công chúa th́ được gọi là Phủ. Thực ra ở phủ 
						Giầy có một hệ thống kiến trúc liên quan tới Liễu Hạnh, 
						đó là phủ chính, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu. 
						 
						Phủ chính là một kiến trúc khá qui mô, gồm ba lớp điện 
						thờ, mặt đều quay về hướng nam, trước điện là giếng tṛn 
						và cột cờ, trên sân rộng phía trước có xây các nhà bia, 
						nhà trống, nhà chiêng, kiến trúc kiểu bốn mái hai lớp. 
						Chúa Liễu và hệ thống Tứ Phủ được thờ ở ṭa điện trong 
						cùng, Mẫu Thượng Thiên hóa thân thành Liễu Hạnh thờ ở 
						trung tâm, bên trái là Mẫu Thoải, bên phải là Mẫu Địa, 
						phía trước là Mẫu Thượng Ngàn (Nhạc Phủ). 
						 
						Tại làng Vân Cát, cách không xa phủ Giầy có kiến trúc 
						phủ Vân Cát. Phía trước đền có hồ bán nguyệt, nối với bờ 
						bằng cầu đá, chạm trổ rất công phu. Phủ Vân có Ngũ Môn 
						và bốn cung, trung tâm thờ Chúa Liễu, bên trái là chùa 
						thờ Phật, bên phải thờ Lư Nam Đế. 
						 
						Lăng Chúa Liễu nằm gần phủ Chính, được dựng bằng đá, 
						kiến trúc công phu và rất đẹp, độc đáo, xây dựng vào 
						những thập kỷ của nửa đầu thế kỷ này. Trung tâm lăng là 
						ngôi mộ h́nh bát giác, mộ ở thế đất cao, có bốn cửa và 
						bậc thang lên xuống. Xung quanh mộ, c̣n có tường vây 
						quanh theo kiểu lan can đá, lớp nào cũng có cửa vào ở 
						bốn phía. Bốn góc của lớp tường vây quanh và hai trụ cửa 
						ra vào đều chạm đá h́nh nụ sen (60 nụ sen) lô nhô như 
						một hồ sen đá.  
						 
						Ngoài hai phủ chính và lăng kể trên, xung quanh phủ Giầy 
						c̣n có nhiều đền miếu bao quanh, như đền Khâm Sai, đền 
						Công Đồng, đền Thượng, đền Quan, đền Đức Vua, đền Giếng, 
						đền Cây Đa, đ́nh Ông Khổng... Tất cả quần thể kiến trúc 
						ấy gần như tập trung trong phạm vi xă Kim Thái, xưa là 
						xă An Thái, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, cách thành 
						phố Nam Định khoảng 15 km. Đó là vùng đồng bằng với 
						những cánh đồng lúa bát ngát, có những ngọn núi đá thấp 
						nằm rải rác, làng mạc trù phú, có ḍng sông hiền ḥa uốn 
						khúc quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa 
						rất nên thơ. 
						 
						Người ta tin rằng Bà Chúa Liễu vốn là con gái của Ngọc 
						Hoàng, v́ phạm lỗi nên bị đầy xuống trần gian, thác sinh 
						vào nhà họ Lê. Khi cất tiếng khóc chào đời, bố mẹ đặt 
						tên là Giáng Tiên, tới năm 18 tuổi th́ gả chồng. Lấy 
						chồng mới được ba năm th́ hết hạn đầy bị gọi về trời. 
						Nhưng v́ nhớ chồng con, Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở 
						về hạ giới. Lần này trở lại, nàng thích vân du khắp nơi, 
						gặp danh sĩ Phùng Khắc Khoan và họa thơ với ông ở Lạng 
						sơn và Hồ Tây, sau lại kết duyên với một thư sinh ở xứ 
						Nghệ và giúp cho chồng đỗ đạt làm quan. Vừa lúc đó nàng 
						lại có lệnh về trời. Trái lệnh vua cha, một lần nữa nàng 
						lại giáng sinh. Lần này nàng không ở một nơi mà cùng hai 
						thị nữ chu du thiên hạ. Thấy vùng Phố Cát là nơi phong 
						cảnh đẹp, nàng hiển linh thành cô gái bán nước ven đường 
						để trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người 
						hiền. Triều đ́nh nhà Trịnh lúc đó cho là yêu quái nên 
						đem quân, dùng pháp thuật để trừ. Hai bên đă dàn quân 
						đánh nhau, đó là "Sùng Sơn đại chiến".  
						 
						Do lập mẹo quân triều đ́nh có cơ thắng, nhưng vừa lúc đó 
						đức Phật ra tay, giảng ḥa, cứu Liễu Hạnh. Nàng được 
						triều đ́nh phong thần là Nữ Hoàng Công Chúa rồi Chế 
						Thắng Đại Vương. Từ đó Liễu Hạnh công chúa không gây 
						kinh sợ cho mọi người, mà luôn luôn ban phát ân đức, 
						được nhân dân tôn thờ là Thánh Mẫu. 
						 
						Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ 
						 
						Đó là câu nói cửa miệng của bất cứ người Việt nào dù họ 
						sinh sống trên quê hương hay đă tha hương nơi đất khách 
						quê người. Trong tâm thức dân gian, vui Hùng là ông Tổ, 
						nên "Dù ai đi ngược về xuôi nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười 
						tháng ba", c̣n Liễu Hạnh là Mẫu (Mẹ), Trần Hưng Đạo là 
						Cha, cả dân tộc coi cộng đồng ḿnh như một gia tộc, có 
						tổ tiên, cha mẹ. 
						 
						Tháng ba, vào cuối tiết xuân, những người nông dân đang 
						buổi nông nhàn, rủ nhau mở mùa trảy hội. Từ muôn nơi 
						người ta đổ về phủ Giầy, nơi có phong cảnh non nước tươi 
						đẹp, công tŕnh đền miếu nguy nga, nơi con người có thể 
						cầu mong Mẫu mang lại những điều tốt lành, may mắn, tài 
						lộc. Trong mười ngày hội phủ, người về dự tính tới hàng 
						vạn, đứng trên non Gôi nh́n xuống, ḍng người trảy hội 
						rực rỡ áo quần, từ muôn ngả đổ về, trườn đi từ từ như 
						con rồng uốn khúc trên thảm lúa xanh non đang th́ con 
						gái. 
						 
						Xưa kia, hội phủ kéo dài trong mười ngày bắt đầu từ 30 
						tháng hai. Ngày đầu hội là nghi thức cúng tế, ngày cuối 
						hội rước Thánh Mẫu, ngoài ra c̣n có các tṛ vui chơi dân 
						dă khúc. 30 tháng hai và mồng một tháng ba là ngày dành 
						cho dân làng tế kỵ, từ ngày mồng ba trở đi là ngày quốc 
						tế, ngày tế của các quan chức hàng tỉnh, hàng huyện. 
						Xưa, quan tổng đốc hàng tỉnh vào làm chủ tế, rồi đến 
						quan tri huyện cùng với chánh, phó tổng cũng vào chủ tế 
						hàng huyện và hàng tổng. Nghi thức tế lễ cũng giống như 
						nhiều cuộc khác, có các tuần dâng hương, dâng hoa, dâng 
						rượu... 
						 
						Tiêu biểu nhất trong hội phủ Giầy là nghi lễ rước Thánh 
						Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi vào ngày mồng 6 và hội kéo 
						chữ vào ngày mồng 7. Kiệu rước bát nhang Thánh Mẫu phần 
						lớn do các bà, các cô đảm nhận, y phục rực rỡ, xúm xít 
						dưới kiệu vàng, vơng điều, cờ quạt, tán, lọng, phướn đủ 
						màu rực rỡ tung bay trước gió lồng lộng vào tiết cuối 
						xuân, đầu hè. Theo đoàn rước c̣n có đội nhă nhạc, bát 
						âm. Các cô gái đồng trinh của đồng quê được cử vào 
						khiêng long đ́nh, rước vơng, khiêng kiệu, che tán, che 
						quạt, các bà trung niên th́ cầm phướn, vác cờ, dẹp 
						đường. Đoàn rước tiến bước giữa tiếng loa thét, rừng cờ 
						phướn tung bay trong đoàn thiện nam tín nữ đi trẩy hội. 
						 
						Nghi thức rước Thánh Mẫu giữa phủ thờ và chùa không phải 
						chỉ diễn ra ở phủ Giầy, nó phản ánh thực tế có sự giao 
						kết giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo. Trong 
						huyền thoại về Chúa Liễu, trận Sùng Sơn thể hiện sự xung 
						đột giữa Chúa Liễu và triều đ́nh phong kiến, sau đó phải 
						cần tới sự cứu giúp và can thiệp của đức Phật. Tương 
						truyền, chúa Liễu sau đó đă nhận mũ áo nhà Phật, noi 
						theo Phật, chỉ làm việc thiện ban phát ân đức. Hiện nay, 
						trong nhiều ngôi chùa thờ Phật Việt Nam đều có điện thờ 
						Mẫu, theo kiểu tiền Phật hậu Mẫu. Sinh hoạt tín ngưỡng 
						Mẫu trở thành một bộ phận của sinh hoạt nhà chùa. 
						 
						Ngày 7 tháng ba là ngày hội kéo chữ, nét độc đáo nhất 
						của hội phủ Giầy. Theo lời kể của nhân dân địa phương 
						th́ sự tích hội kéo chữ như sau: 
						 
						Thời hậu Lê ở thôn Đông Khê, tổng Đồng Nội, huyện Vụ 
						Bản, tỉnh Nam Định có một người kỹ nữ tài sắc tuyệt vời, 
						đó là Phùng Thị Ngọc Đài. Sau khi lấy lẽ hết ông Quận 
						Công Ngà, đến quận Công Hiển, Ngọc Đài trở về ở xă Bảo 
						Ngũ, huyện Vụ Bản là nguyên quán của ông Quận Công Hiển. 
						Năm 1623 vua Lê Thần Tông phong chức Thành Đông Vương 
						cho chúa Trịnh Tráng, chúa ra lệnh mở tiệc ăn mừng, cho 
						tuyển nhiều ả đào đẹp ở các địa phương tiến dẫn về Thăng 
						Long để múa hát mua vui trong bữa tiệc. 
						 
						Ngọc Đài tuy đă góa chồng, nhưng nhan sắc xinh đẹp, kiều 
						diễm, nên lần đó nàng cũng xin đi ứng tuyển. Trước khi 
						lên đường, nàng đến phủ Giầy qú trước bàn thờ Thánh Mẫu 
						và cầu khẩn: "nếu lần này đi mà được vua yêu, chúa dùng 
						th́ không bao giờ quên Mẫu, xin hứa làm cái ǵ để ghi 
						nhớ Mẫu măi măi về sau". Quả nhiên, lời cầu xin của Ngọc 
						Đài được ứng nghiệm. Trong bữa tiệc, biết bao ca kỹ dung 
						nhan tuyệt vời, giọng hát hay mà chúa Trịnh Tráng chỉ 
						say đắm một ḿnh Ngọc Đài. Sau bữa tiệc, nàng được vời 
						vào dinh, được chúa sủng ái và phong cho chức Vương Phi. 
						 
						Thời kỳ Ngọc Đài làm Vương Phi trong phủ chúa th́ cuộc 
						xung đột Trịnh - Nguyễn nổ ra dữ dội hơn, chúa Trịnh ra 
						lệnh bắt phu về Thăng Long xây dựng hệ thống pḥng thủ 
						kiên cố, pḥng chúa Nguyễn tấn công. 
						 
						Trong số phu bị bắt về Thăng Long, có những người quê ở 
						Vụ Bản. Bà Vương Phi biết tin này nên t́m cách cứu giúp 
						dân phu của quê hương bản quán ḿnh, nên đă mật báo cho 
						dân phu khi về tới Kinh chỉ mặc áo rách và ăn cháo cám 
						mà thôi. Một hôm chúa và cung phi cùng đi thị sát dân 
						phu, chúa thấy đám phu ngồi ăn cháo cám. Chúa hỏi mới 
						biết là người Vụ Bản. Nhân lúc đó, Vương Phi tỏ ra buồn 
						rầu, khiến chúa Trịnh vặn hỏi. Khi được biết dân phu đó 
						chính là người cùng quê với Vương Phi, chúa Trịnh tức 
						khắc ra lệnh miễn phu cho họ, cấp lương thực, quần áo về 
						quê quán làm ăn, sinh sống. Hơn thế nữa, chúa c̣n cấp 
						lương thực vải vóc cho toàn bộ dân làng Bảo Ngũ, làng 
						Vương Phi đă ở trước khi vào cung. Ghi nhớ công đức đó, 
						nay dân làng thờ Vương Phi là Thành Hoàng làng. 
						 
						Sau khi nhận được gia ân của chúa Trịnh, Vương Phi muốn 
						làm điều ǵ đó để lại ghi nhớ sự phù trợ của Thánh Mẫu 
						nên dặn dân làng phủ Giầy là cứ sau ngày rước Mẫu từ phủ 
						Chính lên chùa Gôi, th́ dân làng đem xẻng, cuốc, mai, 
						thuổng đến trước phủ Giầy vứt ngổn ngang xuống đất, tỏ ư 
						nhờ linh ứng của Thánh nên dân làng không phải chịu cảnh 
						nhọc nhằn phu phen, rồi xếp người thành hai chữ "Cung 
						tạ".  
						 
						Từ đó về sau, năm nào cũng có tục kéo chữ. Trước kia, 
						hàng năm cứ tới ngày này mỗi tổng trong huyện Vụ Bản góp 
						10 phu cờ tuổi từ 20 tới 35 tới dự hội. Cả huyện có mười 
						tổng, gộp thành 100 phu cờ. Ngoài ra c̣n có một số tổng 
						khác, như Mỹ Lộc, B́nh Lục, nhưng văn nhớ tục cũ, cũng 
						góp thêm người vào cuộc hội này. 
						 
						Phu cờ ăn mặc đồng phục, áo cánh vàng quần trắng, đầu 
						đội khăn đen, có phủ dải lụa ṿng ra ngoài, đi chân đất. 
						Mỗi người c̣n vác một cây gậy dài bốn, năm thước, trên 
						đầu gậy buộc một cái ngù bằng lông gà các đốt gậy đều 
						dán ṿng giấy mầu xanh, đỏ có tua. Chỉ huy toàn bộ những 
						phu cờ là Tổng cờ. 
						 
						Đoàn phu cờ hẹn tập trung tại một địa điểm nào đó, rồi 
						lần lượt theo chỉ huy của Tổng cờ đi hàng đôi tiến vào 
						khoảng đất rộng trước Phương Du của phủ Chính. Khoảng 
						trưa, có lệnh Tổng cờ cho phu cờ chuẩn bị đến giờ xếp 
						chữ (ngả chữ). Giữa tiếng trống cái, trống con gơ liên 
						hồi rộn ră, theo cờ lệnh trong tay Tổng cờ, các phu cờ 
						tiến lùi đứng lên, ngồi xuống thành h́nh chữ. Khi ngồi 
						xuống, các phu cờ vứt gậy xuống đất, như mô phỏng lại 
						tục vứt cuốc xẻng xưa của dân phu trước đền Thánh Mẫu. 
						Việc xếp chữ ǵ do những người tổ chức hội hàng năm qui 
						định, nhưng thường là "Mẫu Nghi Thiên Hạ" (Đức mẹ của 
						muôn dân), "Thiên hạ thái b́nh", "Thạch cập sinh dân" 
						(1938), "Vân hành vũ thi" (1939). 
						 
						Nói tới hội phủ Giầy ngày giỗ Thánh Mẫu không thể không 
						nói tới h́nh thức hát văn và hầu đồng. Đây là h́nh thức 
						sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa tiêu biểu cho tín ngưỡng 
						thờ Thánh Mẫu. Xưa, trong những dịp này, trong và ngoài 
						đền phủ Chính, phủ Vân Cát, người ta tổ chức hát văn 
						chầu và cùng với nó là lên đồng. Đây là h́nh thức diễn 
						xướng tổng hợp giữa âm nhạc, hát, thờ cúng, nhảy múa. 
						Ban văn chuyên tấu nhạc và hát văn chầu theo làn điệu và 
						bài bản riêng, sao cho phù hợp, ăn khớp với người lên 
						đồng. Hát văn có làn điệu riêng, độc đáo, nhưng trong đó 
						cũng thu hút nhiều h́nh thức dân ca khác, như ca trù, 
						trống quân, quan họ, cải lương... Người lên đồng để cho 
						hồn các thần linh của tín ngưỡng Tứ Phủ nhập vào thân 
						xác ḿnh, rồi làm các nghi lễ trước bàn thờ, ăn mặc, 
						nhảy múa, phán truyền theo tư cách và địa vị của thần 
						linh ấy. Đó là các vị thần thuộc hàng các Thánh Mẫu, 
						Quan lớn, các Chầu, các ông Hoàng, các Cô, Cậu... Xưa 
						kia, trong các ngày hội h́nh thức lên đồng bị lợi dụng, 
						mang nặng tính mê tín, buôn thần, bán thánh, nên ngày 
						nay bị chính quyền đia phương hạn chế nhiều.  
						 
						Trong những ngày hội, nhân dân c̣n tổ chức nhiều h́nh 
						thức vui chơi khác như xem hát tuồng, hát chèo, trống 
						quân, kể cả hát xẩm, ca trù, các h́nh thức thi đấu mang 
						tính thượng vơ, như vật, múa vơ, kéo co, đánh cờ, chọi 
						gà... 
						 
						Ngoài các nghi thức tế, rước sách, kéo chữ, xem biểu 
						diễn... hội phủ Giầy c̣n là ngày hội Chợ. Nơi đây trong 
						ngày hội, người ta bày bán các sản phẩm của địa phương, 
						người đi xem thường là tiện dịp mua sắm thêm vài thứ vật 
						dụng trong ngày hội. Hội không chỉ là sự thể hiện đời 
						sống tâm linh, thưởng thức sinh hoạt văn hóa mà c̣n thúc 
						đẩy hoạt động kinh tế, thương mại. 
						 
						Các mặt hàng bày bán thật đa dạng, phong phú, từ cái kim 
						sợi chỉ, chiếc cần câu, lưới, vó, dậm, nơm để đánh bắt 
						cá. Các loại giường, tủ, bàn, ghế sản phẩm của làng mộc 
						La Xuyên kề cạnh, các loại giầy, dép, các loại đồ đan, 
						áo tơi. Các mặt hàng sơn mài của phủ Giầy vốn có tiếng 
						từ lâu, các loại gỗ khảm trai, các bức hoành phi, câu 
						đối cũng được bán ngoài chợ trong ngày hội. 
						 
						Nói tới đi hội không thể không thưởng thức các món ăn, 
						nhất là các món đặc sản địa phương mà ở phủ Giầy nổi 
						tiếng là món thịt ḅ tái, tương gừng, rất hợp vị với 
						tiết trời tháng ba. 
						 
						Vui hội như vậy, nên người nào đă trẩy hội phủ Giầy một 
						lần là c̣n muốn đến nữa:  
						 
						C̣n trời c̣n nước c̣n non  
						Mồng năm rước Mẫu ta c̣n đi xem 
						Ai về nhắn chị cùng em  
						Bảo nhau dắt díu di xem hội này. 
						 
						Nguồn: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam  |