| Lửa 
  Bếp 
 NGUYỄN VĂN TRUNG Ngày nay ở các đô thị, việc dùng bếp 
                        điện khá phổ biến. Ai cũng nhận bếp điện tiện, nhanh, 
                        sạch giản dị và đảm bảo. Hơn nữa, nấu cơm bằng nồi điện 
                        "National" chẳng cần học làm bếp, thổi cơm cũng chắc có 
                        cơm chín không sống không cháy, không khê. Sự biến đổi 
                        kỹ thuật nấu ăn kèm theo một biến đổi ngữ nghĩa của từ 
                        bếp: Bị thu hẹp vào một đồ dùng, mất đi cái nghĩa chỉ 
                        thị một nơi. Nấu bằng bếp điện không c̣n cần một nơi 
                        riêng gọi là nhà bếp, v́ có thể để bếp điện ngay pḥng 
                        khách, pḥng ăn, pḥng làm việc. Cũng không c̣n lo lắng 
                        làm sao có lửa và nhất là làm sao giữ lửa, v́ mọi sự đều 
                        dễ dàng quá, chỉ việc bấm, bật một cái (nút là có điện 
                        vào bất cứ lúc nào muốn có. Nhưng sự giản dị, dễ dàng, 
                        tiện lợi làm mất đi những cảm giác, t́nh tự liên hệ với 
                        lửa bếp những thời mà nhà nào cũng phái có một cái bếp 
                        và lửa bếp c̣n mang tầm mức quan (trọng của một vấn đề 
                        sống c̣n. Nếu dùng bếp điện không được thấy lửa củi, rơm 
                        cháy đỏ hoặc than hồng là thế nào, không cảm thấy (hơi 
                        lửa  nóng tỏa ra, xông vào mặt, (không nghe được 
                        tiếng than nổ lách tách hay tiếng củi cháy xèo xèo. 
                        Nhưng nhất là không c̣n có được những t́nh cảm, rung 
                        động ngồi chung quanh bếp lửa... Nấu bếp vào Mùa Hè, đặc biệt buổi trưa 
                        nóng nực hay là những ngày có đám thật là cực khổ vất vả, 
                        nhưng nếu phải "rúc vào bếp" làm những việc cực nhọc, 
                        nóng bức không có ǵ là thú vị, để phục vụ (tạo bữa ăn 
                        ngon, nóng cho những người thân yêu: Chồng con, phân 
                        thuộc...) th́ những cực nhọc trên lại tạo ra những vui 
                        sướng thật xứng đáng với những cực nhọc đă phải chịu... 
                        Tuy nhiên có những lúc khác ngồi quanh bếp lửa thật là 
                        dễ chịu ấm cúng. Trời tối, rét, gia đ́nh hay hàng xóm 
                        tụm năm tụm ba ngồi quanh bếp vừa nướng khoai, rang ngô 
                        (bắp) vừa thân mật tṛ chuyện, xôm nhộn như ngô rang nổ... 
                        không phải là những giây phút thú vị hạnh phúc sao? Nhờ có lửa. Lửa sưởi ấm, lửa soi sáng, 
                        lửa làm chín thơm ngon...Đó là chức năng chính của lửa: Làm tan giá lạnh buốt xua đuổi đêm tối 
                        hăi hùng, ma quái ngăn chặn hoặc phủ nhận ươn thối (cá 
                        thịt), héo úa (rau cỏ), xóa bỏ mùi hôi tanh, nhằm đem 
                        lại sự sống và duy tŕ sự sống của con người. Cho đến 
                        bây giờ, người ta vẫn chưa biết ǵ nhiều về nguồn gốc 
                        lửa bếp: Làm sao có lửa và giữ lửa (1). Nhưng một điều 
                        có thể khẳng định được là việc t́m ra lửa bếp đó là một 
                        chinh phục lớn lao của con người, một tiêu chuẩn cơ bản 
                        xác định thế nào là văn minh và t́nh nhân loại, v́ chỉ 
                        con người mới biết dùng lửa. Vào thời kỳ sơ khai rất khó 
                        làm ra lửa (bằng cách đập, chà, cọ xát mạnh gỗ đá ) càng 
                        khó hơn giữ lửa được lâu, nên lửa là một cái ǵ thật quư, 
                        hiếm, tạo ra một mói bận tâm lớn lao giữ lửa. Nhiều dân 
                        tộc xưa như dân La Mă thời thượng cổ, các sắc dân miền 
                        Iran đă đặt ra những h́nh luật phạt nặng những kẻ làm 
                        mất lửa: Ở thôn quê Việt Nam thấy có hai cách giữ lửa: 
                        Dùng bùi nhùi dài bằng rơm để cháy âm ỉ, hoặc nhấm trấu, 
                        đổ mớ trấu bên cạnh bếp, trên đè bằng một ḥn đất để 
                        cháy âm ỉ, suốt ngày hoặc suốt đêm, lúc cần chỉ việc 
                        thổi lên là lửa cháy. Chính v́ có đống nhấm trấu, mà bếp 
                        luôn luôn ấm, nóng, biểu  hiện nhà đó, nơi đó có 
                        người ở, sinh sống. Trái lại khi không thấy khói bếp bốc 
                        lên và tro bếp nguội tanh, lạnh ngắt, phải hiểu nhà đó 
                        vắng người, bỏ hoang và không c̣n sự sống ở đó nữa.  Nếu về mặt khảo cổ khoa học, không biết 
                        được ǵ nhiều nguồn gốc của lửa bếp, trái lại có thể t́m 
                        thấy  khá nhiều những thần thoại, cổ tích, phong 
                        tục xưa cũ về nguồn gốc và công dụng của lửa  bếp 
                        mà nói chung dân tộc nào cũng có. Theo Farager, trong nhiều trường hợp câu 
                        chuyện kể (thần thoại, cổ tích) lửa thường được một con 
                        chim hay con vật đánh cắp mang về cho con người. Hoặc 
                        chỉ đàn bà ở nhà mới biết làm ra lửa trong khi đàn ông 
                        đi săn bắn ở xa lại không biết, khi trở về thấy tro hỏi 
                        thăm, nhưng người đàn bà vẫn giấu không nói cho biết. 
                        Kinh nghiệm cọ xát làm ra lửa cũng gắn liền với kinh 
                        nghiệm t́nh ái do đó lửa là biểu hiện của khái niệm sinh 
                        sản. Ở La Mă thời thượng cổ giường cưới được kê sát cạnh 
                        bếp. Sản phụ mới đẻ, ở cữ nằm trên giường dưới có lửa (hơ 
                        nóng bằng than hỏa ḷ như ở thôn quê Việt Nam). Lửa bếp 
                        không những sinh ra sự sống, c̣n ǵn giữ sự sống. Vai 
                        tṛ này được thần linh hóa. Ở ấn Độ, đó là thần Agui 
                        luôn luôn ở cạnh gia đ́nh không bao giờ vắng mặt v́ là "chủ 
                        nhà" để canh giữ gia đ́nh. ỞViệt Nam đó là ông Táo hay Thần Bếp. Sự tích ông Táo 
                        liên hệ với ba ḥn đất nung để kê nồi niêu mà nấu bếp 
                        gọi là ông đầu rau... Có ba cách nấu nướng: Ở chỗ nào 
                        không có đồ dùng (nồi chảo bằng đất, nung, đồng) phải 
                        dùng những ống
 tre, vỏ cây để sát vào lửa, hoặc có đồ nấu, nhưng treo 
                        lên mà nấu như các sắc tộc vùng Bắc Âu, cách thứ ba là 
                        đặt, để đồ nấu trên một dụng cụ ba chân bằng ba cục đất 
                        nặn, hay ba ḥn đá, hay ba que sắt của một cái kiềng gắn 
                        liền vào nhau bằng một ṿng tṛn. Đó là một dụng cụ khá 
                        phổ biến suốt từ vùng Địa Trung Hải, Âu Châu sang Phi 
                        Châu đến Viễn Đông chỉ cần ba chân, không thể là hai v́ 
                        không đủ
 vững chắc, không cần đến bốn v́ thừa
 SỰ TÍCH 
                        ÔNG ĐẦU RAU Cấu trúc và ư 
                        nghĩa: Có nhiều chuyện kể 
                        khác nhau về sự tích này, không cót truyện giống nhau. 
                        Không cần xác định chuyện nào là gốc) chính chuyện nào 
                        là cải biến, phụ v́ càng có nhiễu chuyện kể khác nhau 
                        càng làm nổi bật cốt truyện chung cho tất cả, do đó về 
                        phương diện nghiên cứu, càng dễ xác định cái ǵ làcốt yếu không thay đổi, cái ǵ là tùy thuộc, thay đổi 
                        trong các chuyện kế khác nhau. Để tiện việc tŕnh bày, 
                        chúng tôi gọi những chuyện kể là các thoại của
 sự tích. Qua các thoại, chúng tôi rút ra những yếu tố 
                        không thay đối tạo thành cấu trúc của tất cả các thoại 
                        và sau cùng t́m hiểu xem người xưa đă vận dụng kinh 
                        nghiệm tiếp xúc với vật chất (ở đây là với lửa) thế nào 
                        để bày tỏ những ư nghĩ của ḿnh về những giá trị tinh 
                        thần, đạo đức.
 Thoại 1 Hai vợ chồng nghèo 
                        làm nghề thuê mướn. Tuy nhà nghèo nhưng rất thương yêu 
                        nhau. Buổi tối thường ngồi bên bếp lửa kể chuyện ca hát 
                        cho nhau nghe... Xảy đến một năm mất mùa gây ra t́nh 
                        trạng đói kém khắp nơi. Hai vợ chồng đi t́m việc làm, 
                        nhưng không ai nhận thuê nữa. Túng bấn quá, phải đi ṃ 
                        cua bắt ốc, đào củ hái rau về ăn đỡ đói. Không thể chịu 
                        đựng được nữa, một hôm chồng bảo vợ: Tôi phải đi nơi xa 
                        kiếm ăn, may ra mới thoát khỏi được t́nh cảnh này. Ḿnh 
                        ở nhà chờ tôi trong ba năm, nếu hết ba năm không thấy 
                        tôi về, ấy là tôi đă bỏ xác nơi quê người, ḿnh cứ đi 
                        lấy chồng khác. Người vợ khóc lóc 
                        thảm thiết nhhưng đành ḷng để chồng ra đi. Sau đó, 
                        người vợ kiếm được một chỗ làm mướn ở nhà một người tuy 
                        không giàu có nhưng v́ thương cảnh ngộ nàng nên cố ư 
                        giúp đỡ nàng qua khỏi cái khốn khổ. Thời hạn ba năm trôi 
                        qua mau chóng. Người vợ vẫn mong ngóng chồng về. Giữa 
                        lúc ấy, người vợ của chủ nhà chết. Sẵn có cảm t́nh với 
                        nàng, người chủ ngỏ ư muốn nối duyên cùng nàng. Nàng trả 
                        lời: - Chồng tôi hẹn trong 
                        ba năm trở về. Bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đă chết. 
                        Vậy cho tôi để tang chồng ba năm nữa cho trọn đạo trước 
                        đă.  Ba năm nữa cũng lại 
                        trôi qua, người chồng vẫn biệt tích. Người chủ thúc giục 
                        nhưng nàng c̣n xin nán chờ thêm một năm nữa. Một năm nữa 
                        lại trôi qua và lần này nàng mới tin chồng chết thật. 
                        Nàng làm một bữa rượu cúng chồng, đăi họ hàng rồi đến ở 
                        cùng người chồng mới. Đột nhiên sau đó ba 
                        tháng, người chồng cũ trở về, làm cho đôi vợ chồng mới 
                        cưới không biết ăn nói làm sao. Nhưng người chồng cũ t́m 
                        tới trấn an họ: "Tôi vắng nhà lâu quá hạn, nàng đă xử sự 
                        rất đúng. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi đây măi măi. Mặc dù 
                        người chồng mới xin trả lại vợ, và người vợ cũ năn nỉ 
                        người chồng cũ ở lại, người chồng cũ v́ không nỡ phá 
                        hạnh phúc của họ, vẫn nhất quyết ra đi. Nhưng thực ra 
                        người chồng cũ trong ḷng đau xót, không c̣n muốn sống, 
                        và đă treo cổ tự tử ở cây đa đầu làng. Cái chết của 
                        người chồng cũ làm cho nàng bàng hoàng ân hận, tự cảm 
                        thấy chính ḿnh là thủ phạm, và tự trách ḿnh không đủ 
                        kiên nhẫn chờ thêm ít lâu nữa. Thế là ngày hôm sau, khi 
                        dân làng đưa đám người chồng cũ chưa xong, th́ mgười vợ 
                        mất tích và người ta đă t́m thấy xác người vợ tự vẫn 
                        dưới ao bên cạnh nhà. Người chồng mới, sau khi làm ma 
                        cho vợ, trở thành người mất trí v́ xúc động ân hận trước 
                        hai cái chết như thể do ḿnh gây ra: "Tại sao lại đi 
                        cướp vợ của người khác". Một hôm, ông ta quyết định đem 
                        hết gia sản chia cho họ hàng, đem cúng nhà chùa rồi uống 
                        thuốc độc tự tử. Ở bên kia thế giới, 
                        cả ba người đều được đưa tới ṭa án của Diêm Vương để 
                        định công tội. Theo các lời khai, người chồng cũ sở dĩ 
                        chọn cái chết v́ vẫn thương yêu vợ không thể sống không 
                        có nàng, nhưng lại không nỡ phá vỡ hạnh phúc của người 
                        khác, người chồng mới lại nói tuy rất thương mến người 
                        vợ mới, nhưng so với người vợ cũ đă chết th́ mối t́nh 
                        bên mười bên một, c̣n người đàn bà th́ nói vẫn một ḷng 
                        thương yêu người chồng cũ mặc dù nặng t́nh nghĩa với 
                        người chồng mới. Diêm Vương nghe rất 
                        cảm động và nhận thấy những người như thế này thật hiếm 
                        có nên cần làm thế nào cho bộ ba ấy sống gần nhau măi 
                        măi. Sau một hồi suy nghĩ, Diêm Vương cho ba người hóa 
                        thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi ĺa nhau, và để cho 
                        ngọn lửa luôn luôn đốt nóng t́nh yêu của họ. Đồng thời, 
                        Diêm Vương c̣n phong cho họ chức Táo Quân trông nom từng 
                        bếp một, nghĩa là từng gia đ́nh trên trần thế 
						  Thoại 2 Hai vợ chồng Trọng 
                        Cao và Thị Nhi lấy nhau đă lâu không có con, buồn phiền 
                        thường căi cọ nhau. Một hôm giận quá, Trọng Cao đánh vợ, 
                        Thị Nhi bỏ nhà ra đi gặp Phạm Lang rồi kết duyên với 
                        người đó. Trọng Cao hết giận, 
                        hối hận cũng bỏ nhà ra đi t́m vợ. T́m măi không thấy, 
                        hết cả tiền ăn đường, phải ăn xin lần hồi.  T́nh cờ một hôm vào 
                        một nhà ăn xin, bà chủ mang cơm ra cho, nhận ra chính là 
                        chồng ḿnh. Đôi bên tỏ hết nỗi niềm cùng nhau, nhưng 
                        chợt Thị Nhi nghĩ nếu bất thần Phạm Lang trở về bắt gặp 
                        th́ thật khó ăn nói. Nàng liền bảo Trọng Cao ra tạm ẩn ở 
                        đằng sau đụn rơm, để nàng thu xếp sao cho mọi việc được 
                        êm thấm. Khi tối Phạm Lang trở về, nhớ đến ngày mai chưa 
                        có tro bón ruộng, châm lửa đốt đống rơm để lấy tro... 
                        Trọng Cao v́ đi nhiều mỏi mệt ngủ say nên bị đốt chết. 
                        Thị Nhi cũng đă ngủ, khi thấy đống rơm cháy, chạy ra th́ 
                        đă muộn, xúc động, thương tiếc quá, nàng nhảy vào đống 
                        rơm chết theo người chồng cũ Phạm Lang thấy vợ chết, 
                        thương xót cũng nhảy vào đống rơm chết nốt. Thượng Đế thấy ba 
                        người đều có nghĩa nên mới phong cho làm Táo quan, mỗi 
                        người giữ một việc. Phạm Lang là thổ công 
                        trông nom việc trong bếp. Trọng Cao là thổ địa trông coi 
                        việc trong nhà. Thị Nhi là . . .
 Thoại 3
 Hai vợ chồng nghèo, 
                        chồng đi buôn, vợ làm ruộng nên chồng thường xa nhà 
                        thỉnh thoảng mới về, đôi khi đi suốt năm mới về. 
                         Rồi một chuyến đi 
                        biền biệt  không tin tức, không tiền bạc gởi về 
                        Người vợ chờ cả 10 năm vần biệt tích. Sau đó người vợ 
                        lấy một người chồng khác làm nghề săn bắn; người này 
                        nuôi một đầy tớ tên là Lốc. Một hôm chồng mới và 
                        Lốc đi săn vắng nhà, đột nhiên người chồng cũ trở về và 
                        cho biết sở dĩ đi biền biệt là v́ gặp giặc bất lưu lạc 
                        trong rừng nay mới trốn thoát về được Người vợ chỉ c̣n 
                        biết ôm chồng cũ khóc than, và dọn cơm rượu mời ăn. Khi 
                        chồng mới sắp về người vợ đưa chồng cũ ra đống rơm ẩn 
                        tạm. Chủ và tớ đi săn về được một con cầy. Chồng giục vợ 
                        đi sắm mọi thứ để làm một bữa chén. Trong khi người đàn 
                        bà đi vắng, người chồng và đầy tớ đốt đống rơm để thui 
                        cầy. Lửa vô t́nh đốt cháy thiêu người chồng cũ đang ngủ 
                        say. Giữa lúc đó, người vợ về thấy thế, rất đau đớn, tự 
                        cảm thấy như thể v́ ḿnh mà chồng cũ chết, nên nhảy vào 
                        đống lửa chết theo. Người chồng mới 
                        thương tiếc vợ, cũng đâm đầu vào lừa. Người đầy tớ vừa 
                        thương chủ vừa hối hận v́ chính tay ḿnh châm lửa thiêu 
                        chết người cũng nhảy nốt vào lửa chết theo. Ba vợ chồng sau đó 
                        được Diêm Vương cho hóa làm ba ông đầu rau. C̣n người 
                        đày tớ được hóa làm đồ dùng chặn đống nhấm, quen gọi là 
                        "thằng Lốc". Trong tranh vẽ Táo quân, thường thấy vẽ 
                        người đầy tớ có nghĩa đứng cạnh ba người Phân Tích
 Cấu Trúc Sự Tích
 Nói chung, sự tích 
                        thường có cấu trúc gồm một số yếu tố chính không thay 
                        đổi: Hoàn cảnh mở đầu, một chuyện chẳng lành, không may 
                        hay tai họa xảy ra, phải ra đi, phân ly, thử thách, trở 
                        về. Sự tích không kết thúc sau một đợt thử thách mà 
                        thường trải qua hai ba đợt thử thách. Trở về lại gặp khó 
                        khăn, một điều không may mới, trầm trọng hơn thử thách 
                        khác, cố gắng vượt qua... Cuối cùng, bao giờ cũng có sự 
                        can thiệp của nhân vật thứ ba (ân nhân, thần linh) mới 
                        làm cho việc sum họp trọn vẹn...  Những yếu tố cấu tạo 
                        sự tích có thể xếp thành những cặp phạm trù đối lập nhị 
                        hạng: Tai họa - diệt tai họa; ước hẹn - lỗi hẹn; ra đi - 
                        trở về; phân ly - sum họp; thử thách - đáp ứng; thiếu 
                        sót - đền bù đầy đủ (ân nhân thần linh). Những yếu tố cấu tạo 
                        kể trên không thay đổi, nhưng cách thể hiện chúng như 
                        t́nh cảnh cụ thể của các nhân vật: Chức vụ, nghề nghiệp, 
                        do, cách thức ra đi, ai ra đi là những yếu tố tùy thuộc, 
                        có thể thay đổi.  Yếu tố cấu tạo chính 
                        hay chức năng cơ bản, nói theo Propp, có tính chất bắt 
                        buộc trong mọi loại chuyện cồ tích là một biến cố chẳng 
                        lành, một tai họa xảy ra. Trong Thoại 1, có 
                        nhân vật phụ là người vợ người chủ, không tham gia ǵ 
                        vào sự tích, chỉ xuất hiện như một cái cớ để người chồng 
                        dễ tái giá một cách hợp đạo lư. Trong Thoại 3, nhân vật 
                        đày tớ có tham gia vào sự tích nhưng chẳng qua chi để 
                        phụ họa thêm, đề cao ḷng chung thủy chung t́nh là chủ 
                        đề của sự tích (chung thủy giữa vợ chồng, chung thủy 
                        giữa chủ và tớ). Trong khuôn khổ chủ đề chung thủy, 
                        chung t́nh, sự tích đặc biệt qua Thoại 1 c̣n đề cao sự 
                        tự hiến, hi sinh hạnh phúc riêng v́ hạnh phúc của người 
                        khác. Bài học đạo đức rút ra là: Hi sinh không phải mất 
                        hết, mà chính là mất để được hết, v́ bao giờ những kẻ hi 
                        sinh cũng được đền bù, thưởng công xứng đáng... Những ư tưởng trên, 
                        ai nghe, ai đọc sự tích đều dễ dàng nhận ra, cũng như 
                        nghe một người nói, có thể hiểu và nhớ được ư nghĩa lời 
                        nói qua những câu nói. Cái ǵ làm cho ta hiểu, nhớ và 
                        thuật lại được câu chuyện đă nghe kể, đó là một trật tự 
                        lư luận thuộc ngữ pháp. Cũng vậy, sự tích bao hàm một 
                        trật tự luân lư tạo thành một cấu trúc gồm những yếu tố 
                        không thay đổi và những yếu tố phụ thuộc thay đổi.Điều cốt yếu là phải có một sự kiện chẳng lành, không 
                        may xảy ra, c̣n sự kiện không may, chẳng lành đó là ǵ, 
                        mang h́nh thức nào, diễn ra như thế nào không quan trọng, 
                        được tự do sáng tác, thay đổi tùy tiện. Đó là lư do giải 
                        thích tại sao sự tích thường có nhiều loại khác nhau. 
                        Phân tích cấu trúc là tŕnh bày trật tự luân lư bao hàm 
                        trong các thoại khác nhau của sự tích.
 Nhưng phân tích cấu 
                        trúc chưa cho thấy mối liên hệ giữa sự tích về t́nh 
                        nghĩa vợ chồng và lửa bếp. Thực ra không phải chỉ t́nh 
                        nghĩa vợ chồng mà cả t́nh yêu nói chung trong kinh 
                        nghiệm sống của nhiều dân tộc đều liên hệ với kinh 
                        nghiệm về lửa như những từ ngừ, h́nh ảnh, ẩn dụ kiểu nói: 
                        mối t́nh nồng nhiệt nhiệt t́nh, nóng ḷng chờ đợi, ḷng 
                        bốc cháy t́nh yêu, nguội t́nh... thường được sử dụng để 
                        diễn tả những biểu lộ của t́nh yêu. Trong Thoại không 
                        khí lửa bếp soi sáng sưởi ấm gắn liền với không khí vợ 
                        chồng thân mật ấm cúng. Sau khi được đoàn tụ, cả ba 
                        người được trao nhiệm vụ coi lửa bếp, để lửa luôn luôn 
                        đốt nóng t́nh yêu của họ...  Trong Thoại 2, lửa 
                        thiêu đốt rơm làm tro bón ruộng, nướng chín động vật và 
                        sau cùng thiêu đốt cả những người yêu nhau mà đâm vào 
                        lửa chết. . .  Lửa thiêu đốt củi, 
                        rơm, trấu... để soi sáng, sưởi ấm, làm chín... phục vụ 
                        con người. Sau khi thiêu đốt phục vụ cũng bị tiêu diệt, 
                        tan biến đi. Thời gian tồn tại của lửa cháy đôi khi rất 
                        vắn vỏi, như ánh chớp của sét, chỉ lóe lên soi sáng 
                        trong khoảnh khắc rồi tan biến ngay trong đêm tối... 
                         H́nh ảnh tự tan biến 
                        đi sau khi đă phục vụ là h́nh ảnh cao đẹp nhất của lửa 
                        cháy v́ cho mà không giữ lại ǵ hay được đáp lại ǵ cả. 
                        Hoàn toàn vô vị lợi, v́ người khác. Người xưa đă mượn 
                        h́nh ảnh cao đẹp trên của lửa cháy để bày tỏ thái độ hi 
                        sinh quên ḿnh của những người sẵn ḷng chết v́ yêu 
                        thương người khác. Chú thích:(l) Năm 1928 các nhà cổ sinh vật học t́m thấy ở vùng gần 
                        Bắc Kinh những sọ người cùng với một số đồ dùng thô kệch 
                        và tro có thể do nấu nướng mà ra trong các hang động. 
                        Trên cơ sở đó mà nêu giả thuyết con người bắt đầu biết 
                        dùng lửa để làm chín đồ ăn vào thời kỳ con người Bắc 
                        Kinh (Xem André Le roi - Gouhan. L' Homme ét la mat́ere, 
                        trang 65)
 NGUYỄN VĂN TRUNG Nguồn: bạn đọc góp bài
 
 
 
 |