Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
Lịch sử trống đồng Việt Nam

Trống đồng Việt Nam phân bố ở nhiều nơi trên đất nước ta, từ Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn đến Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Ḥa, Vũng Tàu vào tận vùng hải đảo xa xôi Phú Quốc. Ngoài ra, bằng con đường giao lưu văn hóa hoặc trao đổi, trống đồng Việt Nam vượt biên giới đến những nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thailand, Malaysia ...

Trống đồng Việt Nam có nhiều loại h́nh, nhưng tất cả khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng Việt Nam có niên đại khởi đầu khoảng thiên niên kỷ I trước Công nguyên cho đến một vài thế kỷ sau công nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ, cộng đồng cư dân đă chinh phục vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mă, một vùng đất chứa nhiều sản vật thiên nhiên nhưng cũng đầy thử thách. Tổ tiên ta đă vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có đă tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau bản địa, nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Á.

Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xă hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta - Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những h́nh khắc họa trên trống đă giúp chúng ta ngày nay h́nh dung được đôi nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp lư trên các phần mặt, tang và thân trống. Nó được các nhà nghiên cứu t́m hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xă hội, văn hóa Đông Sơn thời bấy giờ.

Trống Đồng Đông Sơn: là một loại nhạc cụ dùng trong các buổi lễ hay khi đi đánh nhau. Trống đồng được t́m thấy ở nhiều nơi trên đất Việt Nam, như Thanh Hóa (Đông Sơn, 24 trống), Hà Đông (9 trống), Bắc Ninh, Cao Bằng (mỗi tỉnh 3 trống), Hà Nam, Hà Nội, Hoà B́nh, Kiến An (mỗi nơi 2 trống), Nam Định, Lào Cai, Sơn Tây, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum (mỗi nơi một trống). Ở Hoa Nam th́ t́m thấy nhiều nhất, ở Vân Nam (5 trống). Các tỉnh khác th́ Quế Châu, Quảng Tây, Tứ Xuyên (mỗi tỉnh t́m thấy 3 trống), Quảng Đông (2 trống). Tại Cam bốt, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Mă Lai, Nam Dương cũng thấy nhiều trống đồng cổ. Riêng Thái Lan và Lào cũng như ở xứ Mường (thượng du Việt Nam) ngày nay người ta vẫn c̣n dùng trống đồng. Trống đồng đẹp nhất phải kể đến các trống Ngọc Lũ, Hoà B́nh, và Hoàng Hạ.

Trống Đồng Ngọc Lũ: t́m thấy ở chùa Ngọc Lũ (Hà Nam) vào năm 1901. Trống này cao 0,63 mét (1.8 ft), đường kính mặt trống 0,86 mét (2.5 ft), được trang trí bằng các h́nh chạm sâu xuống cả trên mặt trống lẫn tang trống.

Chính giữa mặt trống là một h́nh ngôi sao (hay mặt trời) 14 cánh. Chung quanh ngôi sao này là 16 ṿng tṛn đồng tâm có trang trí bằng nhiều h́nh kỷ hà hay h́nh vẽ khác nhau. Giữa ṿng thứ 5 và thứ 6 có khắc h́nh 2 căn nhà mái cong, có sàn, trong có người tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn trống và đoàn vũ nhạc nhảy múa, thổi khèn. Sau nhà có 2 người đang giă gạo. Xen kẽ với 2 nhà sàn trên là 2 nhà sàn mái tṛn trong có người cầm kiếm. Trước nhà này có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm một con chim. Sau nhà là một đoàn vơsĩ cầm lao, cầm kiếm đang múa. Giữa ṿng thứ 7 và thứ 8 có chạm h́nh 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn) và xen kẽ với 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8 con). Giữa ṿng thứ 8 và thứ 9 có khắc 18 con chim mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con chim đang đậu dưới đất. Trên tang trống, phần ph́nh ra có khắc h́nh thuyền trên có những người cầm lao, kiếm, cung, đang chuẩn bị chiến đấu, hoặc đang nhảy múa hoặc chèo thuyền. Trên phần thẳng đứng có những đường trang trí kỷ hà thẳng đứng hay nằm ngang đóng khung lấy những h́nh người cầm ŕu và lá chắn.

Trống Đồng Ḥa B́nh: t́m thấy ở Mường Dâu, Ḥa B́nh. Trống này được gọi là trống Moulié (tên người mua được và tặng lại cho Viện Bảo Tàng). Trống này được tàng trữ trong Bảo Tàng Quân Đội Pháp, rồi được chuyển cho Bảo Tàng Viện Guimet (Paris).

Trống Đồng Hoàng Hạ: t́m thấy ở làng Hoàng Hạ (Hà Đông), cao 0,615 mét (1.84 ft) và đường kính mặt trống là 0,78 mét (2.3 ft). Mặt trống đồng Hoàng Hạ cũng trang trí bằng các ṿng tṛn đồng tâm trong đó có khắc h́nh nhà sàn, người, chim bay. Tang trống chỗ ph́nh ra cũng khắc h́nh thuyền. 

Các nhân vật trên thuyền tương tự như ở trống Ngọc Lũ, nhưng thứ tự bố trí hơi thay đổi một chút. Các trống đồng t́m thấy ở Hoa Nam, Lào, Cam bốt, Mă Lai tuy về h́nh thức (h́nh dáng và trang trí) có giống trống đồng Lạc Việt, nhưng những nét chạm trổ c̣n thô sơ vô cùng. Có thể đấy chỉ là những trống bắt chước trống Lạc Việt một cách vụng về mà thôi. Trống đồng Hoàng Hạ là một di vật rất quư.

Trống là một cổ vật của chung miền Nam Á, gồm cả Tầu, Việt, Miên, Thái, Phi, Miến, Mă Lai, Nam Dương mà trung tâm phát xuất lớn nhất là Việt Nam. Trống đă xuất hiện lu bù ngay từ thời khuyết sử, dưới rất nhiều h́nh thức như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa, trống sấm, trống vu hích, trống cầm canh ... kể ra không hết. Huyền thoại có nói đến trống da qú (giao long) của Hoàng Đế, trống một chân của nhà Hạ (túc cổ), trống có lỗ thông giữa của nhà Thương (doanh cổ) lịch sử Tư Mă Thiên có nhắc tới vụ vua nhà Chu cho Tần Mục Công một chiếc trống đồng vào năm 623 trước công nguyên. Riêng với Việt Nam, năm 43, lúc Mă Viện sang đánh Trưng Nữ Vương đă thu hết trống đồng đưa về tặng bạn bè, hoặc phá ra đúc ngựa mẫu. Từ đấy, trống bị quên lăng dần dưới ách ngoại bang. Trong Lĩnh Nam Trích Quái, có truyện "Minh chủ Đồng cổ sơn thần truyện" nhắc tới trống theo khía cạnh này. Đến thời Pháp thuộc, vào lối 1885-1895, thực dân mới nhận ra trống đồng là một di vật rất quư, nên t́m mua khắp nơi. Xin ghi lại đây mấy chiếc nổi tiếng. Trước hết là 2 chiếc loại thời danh nhất: Một do Moulié lấy được của bà góa quan lang người Mường ở miền Sông Đài tỉnh Hoà B́nh. Chiếc này được đem trưng bày ở Hội Chợ Quốc Tế Paris 1889 rồi mất tích. Đến năm 1936 thấy xuất hiện ở bảo tàng viện Guimet. Hai, là chiếc trống Khai Hóa, do Gillet lấy được ở một tù trưởng Miêu tộc trên Vân Nam, cũng đưa đi đấu xảo ở Paris, rồi mất tích. Sau thấy xuất hiện ở bên Đức, tại bảo tàng viện dân tộc học thành Vienne. Chiếc trống đồng thứ ba là trống Ngọc Lũcủa chùa Long Đại Sơn, làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Năm 1901, trường Viễn Đông Pháp đă nhờ trung gian chánh sứ Phủ Lư lấy trống ấy về Viễn Đông Bác Cổ, nay ở Hà Nội. Chiếc trống thứ tư là trống Hoàng Hạ, t́m được vào năm 1932, nhân lúc khai sông gần làng Hoàng Hạ, tỉnh Hà Đông. Trống được trao cho trường Viễn Đông Pháp, để ở bảo tàng viện Finot, nay cũng ở Hà Nội. Đó là cặp trống đẹp nhất, cổ nhất, hơn cả 2 trống Sông Đà và Khai Hóa. Có thể kể ở đây chiếc trống thứ năm, gọi là Trống Hà Nội, được Anderson mua, đưa về Stockhom. Và chiếc thứ sáu là trống Lào, t́m được bên đường cái Oubon bên Lào vào năm 1924. Theo Goloubew, chiếc trống này rất đẹp, cũng vào hạng cổ nhất, v́ ít bị kiểu thức hóa. Mặt trống rộng 86 cm, cao 54 cm. Ṿng 1 có 5 cặp vật giống giao long châu đầu vào nhau. Có nai và cả cá nữa. Về loại to nhất có trống Đông Hiếu (Nghệ An) rộng 89 cm, hiện ở Hà Nội. Theo Goloubew, c̣n một chiếc trống rộng tới 1 mét (3 ft) của một tay chơi người Pháp tên là Nelson trước ở Bắc Xế, Lào. Nghe nói ở bên Mỹ có một trống to cả thước mặt, hay là chiếc trống nói ở đây chăng ? (Chúng tôi thấy có một trống rất lớn ở bảo tàng Chicago. Hay là chính nó ?). Phân Loại Trống Đồng Bên Tây Âu có dấu vết đă biết về trống đồng từ năm 1682 (xem Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, L. Bezacier, Paris, Picard 1972). Nhưng măi tới cuối thếkỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890) mà ông cho là bởi Tầu. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Tộc. Ông Franz Heger, một học giả người Đức làm cố vấn trong hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông ở Hà Nội năm 1902 đă cho xuất bản tại Leipzig 2 quyển về trống đồng cổ ở Đông Nam Á. Sách in khổ lớn, có 45 h́nh và một bản mục lục về tất cả các diễn đề. Ông Heger chống lại ư kiến của Hirth cho trống đồng là sản phẩm của Tầu, ủng hộ ư kiến của Grooth cho là của Việt Tộc, quả quyết trung tâm các cuộc t́m kiếm sau này về trống đồng phải là ở Bắc Việt, và xin người Pháp chú ư đến di vật đầy tính chất văn hóa này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại. V́ sự phân chia này được các học giả công nhận, nên chúng ta cần duyệt qua để có một ư niệm khái quát: Loại I thường lớn, thân trống h́nh trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt trên có h́nh sao đúc nổi với 12 cánh. Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống Quảng Xương. Hoặc 14 cánh như trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như trống Hoàng Hạ, Salayar. Loại I này t́m được nhiều nhất ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, và Sông Đà. Loại II thân trống chỉ có 2 phần, không có h́nh người hay vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn h́nh học. Trên mặt trống thường có h́nh khối 4 con cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại này t́m thấy nhiều ở Việt Nam cũng như mạn Nam Trung Hoa. Loại III quai nhỏ đẹp. Mặt trời có 12 cánh. 4 góc mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang trí toàn bằng đồ án h́nh học và hoa văn. Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây "đời sống". Đôi khi ốc thay voi. Người ta t́m thấy loại này ở Miên. Loại IV riêng của Tầu như được chứng tỏ bằng hồi văn gẫy khúc. Kích thước thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi nói rơtên 12 con vật địa chi. Loại này cũng như loại III, đều xuất hiện muộn, nhưng chưa xác định được niên đại. Ngoài 4 loại trên có thể kể thêm loại trống Trấn Ninh (Vân Nam) mới t́m được hồi năm 1955, trên mặt có những khối h́nh người và thú (ḅ, ngựa, chó) diễn lại những cảnh sống: săn, chiến, lễ... Loại này khác hẳn ở chỗ thân trống cao, trên mặt thêm nhà cùng h́nh khối, quai là 2 con hổ.

 



Không gian của vùng đất văn hóa Cổ Việt

H́nh tượng

Mặt trống đồng Đông Sơn là một vũ trụ thu nhỏ với sự hợp lư tối ưu nhất về cấu trúc cũng như nghệ thuật tạo h́nh. Tâm trống luôn luôn là một ngôi sao, chỉ khác nhau ở số cánh. Ở các trống Ngọc Lũ I, Hoàng hạ, Miếu Môn, Sông Đà là ngôi sao 14 cánh. Ở các trống Khai Hóa, Bản Thôm là ngôi sao 16 cánh. Ngôi sao 12 cánh như trống Làng Vạc I, ngôi sao 10 cánh như trống Làng Vạc II, Phương Tú, B́nh Phú và ngôi sao 8 cánh như trống Quảng Xương, Việt Khê. Chung quanh ngôi sao là những băng ṿng tṛn đồng tâm h́nh người, động vật, diễu hành theo ngược chiều kim đồng hồ. Ngôi sao chính là một biểu tượng thờ thần mặt trời của các cư dân nông nghiệp. Chim bay ngược chiều kim đồng hồ có trên hầu hết các loại trống đồng. Số lượng chim trên các trống khác nhau, nhiều nhất là 18 con và ít nhất là 4 con. 16 con chim bay trên các mặt trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ, 6 con bay trên các trống Đông Sơn, Hà Nội, 4 con bay trên các trống Núi Gôi, Ngọc Lũ II.

Ư kiến của các nhà nghiên cứu.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, h́nh ảnh này mang ư nghĩa tín ngưỡng vật tổ - một tín ngưỡng phổ biến của các cư dân nông nghiệp thời cổ đại. Và cũng có thể là một cách h́nh tượng hóa truyền thuyết "Con Rồng Cháu Tiên" của dân tộc Việt hoặc "Đẻ đất đẻ nước" của dân tộc Mường. H́nh hươu được trang trí trên trống Ngọc Lũ I gồm hai nhóm. Mỗi nhóm 10 con chạy ngược chiều kim đồng hồ, đối xứng nhau. H́nh ḅ được trang trí trên trống Đồi Ro, Làng Vạc I, vẽ đối xứng nhau ở hai mặt của tang trống. Tượng cóc được đúc trên mặt trống ở vị trí cách đều nhau, phổ biến là 4 con. Loại h́nh tượng này được trang trí trên trống Phú Phương, Đa Bút, Thôn Mống. H́nh tượng những con vật hiền lành xen vào những con chim đang bay, biểu hiện một cuộc sống êm đềm giàu chất thơ của cộng đồng cư dân Việt cổ trong những vùng nông thôn cổ đại.

Đội thủy binh của người Việt Cổ.

Ta cũng được biết đến đội thủy binh của người Việt cổ qua những h́nh thuyền có dáng h́nh ṿng cung, mũi và đuôi uốn cong lên, chạm khắc theo h́nh đầu chim. Sốngười trên thuyền dao động từ 5 đến 8 người, không giống nhau giữa các thuyền. Những người đi trên thuyền gồm có: Người chỉ huy đội mũ lông chim cầm dùi gơ trống, thủy binh đánh gần cầm các loại vũ khí như giáo, ŕu chiến và thủy binh đánh xa cầm cung. Những h́nh ảnh này thường thấy trên các trống có niên đại sớm như trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ.
 

 

Âm thanh

Trước hết trống đồng là một nhạc khí thuộc bộ gơ, việc sử dụng trống đồng trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt cổ mang nhiều ư nghĩa. Qua tài liệu dân tộc học, sử học, khảo cổ học cùng với nghệ thuật tạo h́nh trên những hoạ tiết của trống Đông Sơn, cho thấy trống được sử dụng trong những ngày lễ hội hoặc cầu mong mưa thuận gió ḥa của cả cộng đồng.

H́nh ảnh này ngày nay c̣n đọng lại trong các nghi lễ hội hè, đ́nh đám, ma chay của một số dân tộc ít người trên đất nước ta. Hoặc phảng phất trong những nghi lễ đ́nh làng của người Việät mà chiếc trống đồng được thay bằng chiếc trống da. Trống đồng c̣n được dùng làm hiệu lệnh triệu tập mọi người trong công xă mỗi khi có việc công.

Trống đồng cũng được sử dụng như là lời hiệu triệu, truyền tải những hiệu lệnh của các chức sắc địa phương và mệnh lệnh của quân đội. Trống đồng c̣n là vật tùy táng. Với quan niệm chết là sống ở một thế giới khác, trong những di tích khảo cổ học Làng Vạc (Nghệ Tĩnh), Việt Khê (Hải Pḥng) cho thấy người ta chôn theo người chết trống đồng cùng với những di vật khác như giáo, lao, ŕu đồng.

Chế tạo

 

Muốn đúc trống, khâu đầu tiên là phải làm vật mẫu. Vật mẫu được nhiều người chấp nhận nhất là làm bằng sáp ong, v́ đấy là loại chất liệu dễ tạo h́nh cũng như dễ chạm khắc những họa tiết phức tạp. Khuôn được làm bằng đất sét với hai mảng được khép khớp vào nhau. Điều này được xác định bởi một đường chỉ cắt trống ra làm hai phần đều nhau c̣n để lại vết tích trên tang trống. Mặt trống được cấu tạo từ một khuôn h́nh tṛn khác được đặt lên trên. Để tạo được khuôn người ta đốt những vật mẫu chảy ra và khuôn được hoàn thành. Một trống nhỏ hơn không trang trí được đặt bên trong khuôn. Khuôn hoàn thành người ta rót đồng vào trong các lỗ (đậu rót) và phân bố đều trên mặt khuôn tạo thành trống. Hợp kim được sử dụng để đúc trống là đồng - ch́ - thiếc với nhiệt độ trung b́nh khoảng 1200°C. Đây là những phác thảo đơn giản của việc đúc trống đồng. Tuy nhiên, hiện nay việc nghiên cứu kỹ thuật đúc trống c̣n dừng lại ở giả thuyết.

Không phải ngẫu nhiên trống đồng Đông Sơn trở thành biểu tượng của văn minh Việt Nam. Giá trị văn hóa, lịch sử khởi đi từ 2500 năm trước được phản ảnh từ kỹ thuật đúc đến kiểu dáng, họa tiết, trang trí và âm thanh khiến trống đồng Đông Sơn không chỉ được đặt trang trọng trong các bảo tàng địa phương như Hà Nội, Sài G̣n, Vĩnh phú, Thanh Hóa... mà c̣n ở các bảo tàng nổi tiếng trên thếgiới như Paris, London, Thailand, Indonesia ... Âm vang gịn giă của tiếng trống đồng từ những cuộc chiến đấu giữ nước và dựng nước thời Hùng Vương gắn liền với những chiến thắng chống ngoại xâm Tần, Hán, Nguyên Mông, Măn Thanh ... của dân tộc Việt vang vọng đến ngày nay để trở thành niềm tự hào và là biểu tượng cao quư trong ḷng người dân Việt.

Mỹ thuật Đông Sơn tượng trưng cho thời cực thịnh của mỹ thuật thời kim khí của người Lạc Việt. Thời kỳ này đánh dấu một bước tiến khá dài của người Lạc Việt về phương diện kỹ thuật cũng như về phương diện mỹ thuật. Về kỹ thuật, thời bấy giờ, Tổ Tiên của người Việt Nam chúng ta đă t́m ra quặng đồng, quặng sắt. Đă biết cách luyện các kim khí đó, rồi lại c̣n biết pha chế để tạo ra các hợp kim có đủ tính chất cần dùng cho dụng cụ. Về mỹ thuật, những dụng cụ kim khí thời này có h́nh dạng rất đẹp, lại c̣n được trang trí bằng các h́nh vẽ, h́nh kỷ hà đủ kiểu, nói lên sự phong phú về óc thẩm mỹ của Tổ Tiên. Mỹ thuật Đông Sơn đă có một tầm ảnh hưởng rất rộng. Riêng ở Đông Sơn, các nhà khảo cổ đă t́m được hàng ngàn dụng cụ kim loại đủ kiểu. Ngoài ra, ở các vùng Hoa Nam, Lào, Cambốt, Thái Lan, Miến Điện, Mă Lai, Nam Dương, người ta cũng t́m thấy nhiều dụng cụ có sắc thái tương tự (nhưng tất nhiên không đẹp bằng), chứng tỏ rằng mỹ thuật Đông Sơn đă chi phối khắp vùng Đông Nam Á (xem bài nghiên cứu "New Light on A Forgotten Past", của giáo sư Wilhelm G. Solheim II, đăng trên tạp chí National Geographic, tháng 3.1971).

(Sưu tầm trên NET)

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17