Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
TIẾNG VIỆT VỚI TRIẾT-LƯ ÂM DƯƠNG VÀ ĐẠO SỐNG THÁI-H̉A
 (hay là Hồn Nước Trong Tiếng Việt)
 trích tác-phẩm Tiếng Việt Tuyệt-Vời (ấn-bản lần 2) (**)
 tác giả: Đỗ Quang-Vinh
 
--------------------------------------------------------------------------------
 
 Một ngàn năm Bắc-thuộc vẫn không đồng-hóa được Việt-tộc với Hán-tộc. Những chiến-dịch thu gom trống đồng, sách vở cũng không thể tước-đoạt được sở-hữu văn-hóa của giống ṇi Việt-Nam. Sở-hữu ấy bàng-bạc trong ngôn-ngữ, trong văn- chương truyền miệng. Những chứng-tích khảo-cổ và những khám phá được khai-quật sau này càng chứng-minh hùng-hồn rằng: tổ-tiên chúng ta đă xây-dựng từ ngàn xưa một nền tảng cho Việt-Triết, triết-lư âm-dương với đạo sống Thái- Ḥa, nhận-diện con người là trung-tâm điểm của vũ-trụ, là hội-tụ của Đất Trời, là gạch nối trong tương-quan Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân. Đạo Sống quy-tụ mọi nẻo ngả tương-liên giao-hội về chung một mối, một đường.
 
Thật vậy, tổ tiên Lạc-Việt chúng ta đă có sẵn một triết-lư âm dương dịch-học:
 
*   *
*
A.- TRIẾT LƯ NÀY ĐƯỢC DIỄN TẢ
 
TRÊN MẶT TRỐNG ĐỒNG (1).
 
Theo truyền thuyết, Hùng-Vương trao ban 1600 trống đồng cho mọi chi-tộc làm căn-bản trị quốc. Nhưng khi Mă-Viện sang đánh Trưng-Vương, đă ra lệnh thu hết trống đồng về Trung-Quốc. Trong số các trống đồng được khai-quật sau này, tiêu-biểu nhất là trống đồng t́m thấy ở chùa Long-Đại- Sơn, làng Ngọc-Lũ, Hà-Nam, và trống đồng t́m thấy ở Đông- Sơn, Thanh-Hóa. Qua các h́nh vẽ trên mặt trống đồng Ngọc-Lũ, người ta đọc được tất cả ư-nghĩa truyền-thống mà đức Hùng-Vương đă truyền ban cho con dân ngàn đời để lập quốc, bảo quốc và hưng quốc. Các yếu-tố đó là ánh sáng, âm- thanh, việt-điểu, hướng đi tả-nhậm theo hướng mặt trời (ngụ ư thuận theo thiên-lư, thiên-mệnh), triết-lư tam tài, âm dương, đời sống nông-nghiệp và kiến-trúc mái nhà cong. Học-giả Hán-Chương Vũ Đ́nh-Trác đă gọi đây là hồn nước thể-hiện trên mặt trống.
 
“Những nét vẽ song trùng, diễn-tả nguyên-lư âm dương là hai yếu-tố cơ-động của trời đất, của muôn loài và của mọi biến- thái trong cuộc sống. Trời đất, người vật, nam nữ, núi sông, Tiên Long, nóng lạnh, tối sáng, vui buồn, động tĩnh, sống chết, có không, ẩn-hiện tất cả đều tương-khắc, tương-sinh hài-ḥa theo nguyên-lư âm dương dịch-biến. Song trùng v́ chúng song song rồi giao nhau, gọi là giao-chỉ, nói lên sự tương-giao tương-ḥa giữa hai yếu-tố âm dương tương-khắc, biểu-hiệu của tinh-thần tương-liên, hiệp-nhất hài-ḥa.
 
Các nhà khảo cổ đă chứng-minh rằng: truyền-thống văn-hóa Viễn-Đông phát-khởi từ Bách-Việt mà ra, trong đó có Việt- Nam, trước cả Hán-tộc, những đồ đào được tại Trung-Quốc đều thuộc vùng Việt-tộc. "Theo sử-quan trống đồng Việt- Nam, kiến-trúc mái nhà cong của ta đă có trước Công-nguyên ít ǵ cũng hàng ngàn năm. Trung-Hoa chỉ có mái nhà cong từ đời nhà Đường, khoảng năm 630. Chính Đường Huyền Trang, pháp-danh Đường Tam Tạng, sau khi thỉnh kinh ở Ấn-Độ về, được vua Đường Cao Tông cho sử-dụng Ngọc Hoa Cung làm chùa. Huyền-Trang sửa lại cung thành chùa cũng theo kiến-trúc mái thẳng, chưa có mái cong. Trước đó, năm 539, nhà Hán tu-bổ miếu thờ Khổng-Tử vẫn c̣n mái thẳng, như nhà Kim Thanh Ngọc Chấn, Đạo Quan Kim Cổ. Mái cong của Việt-tộc tượng-trưng cho sự vươn lên, hướng thượng, lên tới Thiên, đồng thời cũng là nét hài-ḥa giữa đường thẳng và vuông, để lập một sự cân đối giữa vuông tṛn, là đường đi tới đạo sống toàn-diện: bao-quát trên dưới, trong ngoài, tả hữu và ba bề bốn bên". 
 
B.- TRIẾT LƯ NÀY C̉N ĐƯỢC MINH THỊ
 
TRONG SỬ LIỆU CỔ THI (1).
 
 Gần đây học-giả Hán-Chương Vũ Đ́nh-Trác cũng t́m thấy trong đại-bộ Lĩnh Nam Di Thư tàng-trữ nơi thư-viện Đại-Học Đông-Kinh, tập tài-liệu cổ quư-giá nhan-đề "Bách Việt Tiên Hiền Chí". Sách này do Âu Đại Nhậm, tự Trịnh-Bá, đời Minh tuyển-soạn, bao gồm 102 hiền-triết Bách-Việt. Trong số này có nhiều nhân-vật quen thuộc như Phạm-Lăi, Chu Măi-Thần, Vương-Sung, Lư-Tiến. Tư-tưởng nổi bật của các vị tiên-hiền đó quy về các đề-tài chính: Triết-lư Âm Dương, Triết-Lư Tam Tài, Đạo Sống Quân-Tử, Hiếu-Đạo, Triết-Lư Nông-Nghiệp, Đạo Sống Thiên-Nhiên. Bài tựa cho thấy Việt Câu Tiển đă có thời diệt Ngô xưng vương hùng-cứ một phương, sáu đời gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về thương-mại, đánh bại Câu-Tiển. Vũ-Việt phân-tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng Vương, người xưng Chủ khắp miền duyên-hải Giang-Nam. Đó là Bách-Việt. Câu-Tiển thâu-hồi cả miền Dương-Việt lập thành ba quận. Con cháu sau này quy-phục Hán-tộc, liên-hiệp các miền thành Phù-Việt, Mân-Việt, Âu-Việt và Lạc-Việt. Sau này có Diêu-Triệu thâu-hồi dân Việt chung quanh, lập thành hai kinh Đông Tây (tức Quảng-Đông và Quảng-Tây). Thần-dân Việt-tộc có công-nghiệp văn-chương rải-rác khắp bảy tám dặm miền duyên-hải Giao-Châu đă đem lại nhiều lợi-ích. Cả hơn mười Việt-tộc đă bị đồng-hóa với Hán-tộc, chỉ trừ Lạc-Việt và Việt-Thường tự-cường mà tồn-tại thành Việt-Nam ngày nay.
 
Về điểm này, học giả Hán-Chương nhận-định tiếp: "Triết-lư Âm Dương được xuất-hiện dưới ng̣i bút của các vị tiên-hiền: Kế Nghi, Dưỡng Phấn, Quách Thương. Kế Nhi đề-cập luật âm dương với ngũ hành. Dưỡng Phấn tŕnh bày hậu-quả của âm dương. Quách Thương nhấn mạnh dương-đức là căn- bản của chánh-sách tu, tề. Đọc qua ba tiên-hiền này, ta có cảm-tưởng như ḍng Bách-Việt xưa coi âm dương là nguyên- tố sinh tử của một hệ-tộc. Cũng nhờ âm dương quân-b́nh và dương-đức cường-thịnh mà hai hệ-tộc Lạc-Việt và Việt- Thường c̣n tồn-tại, để thành Việt-Nam ngày nay. Nhờ ḍng triết-lư này, đạo sống quân-b́nh âm dương được thể-hiện nơi người Việt muôn thuở, mà lịch-sử tôn họ là dân anh-hùng". 
 
C.- TRIẾT-LƯ NÀY C̉N ĐƯỢC  GÓI-GHÉM NGAY TRONG NGÔN-NGỮ VIỆT. 
 
Vào thời tiền-sử, khi chưa có chữ viết, tư-tưởng của Việt-tộc, như đă đề-cập, được thể-hiện trên mặt các trống đồng, mà chính-sử Hán-tộc đă xác-nhận kể lại trong di-thư nói trên. Nhưng c̣n một dấu-tích sống động nhất, ghi lại được ư-thức- hệ của tổ-tiên, ấy là tiếng nói của người Việt muôn thuở dù cho phiêu-bạt nơi góc bể chân trời, để rồi sau này theo đà tiến-hóa, khi chữ viết thành h́nh, tư-tưởng ấy được chuyên- chở qua các tác-phẩm văn-học. 
 
A- NGÔN-TỪ, NGỮ-PHÁP ĐỀU BÀNG-BẠC NGUYÊN-LƯ ÂM DƯƠNG.
 
I- XÉT VỀ MẶT NGÔN-TỪ: 
 
1.1.- Người Việt có thói quen nói đối-xứng: 
 
Cặp âm dương tương-đối luôn luôn nằm sẵn trong sự vật gây ra những mâu-thuẫn, như mặt trái với mặt phải, như ghen ghét chính là bề trái của yêu thương. Hoạn-Thư ghen ghét cũng chỉ v́ yêu nên mới:
 
Bề ngoài thơn-thớt nói cười,
 
Mà trong nham-hiểm giết người không dao.
 
Cho nên trong ngôn-ngữ thường ngày, nhan-nhản những câu nói đối như:
 
                   a- Về ngữ vựng: Người ta nói ra vào, đứng ngồi không yên, ḷng người đen bạc; biết đường lui tới; ḷng yêu quê hương đất nước, v.v... 
 
                   b- Về thành ngữ: Ta quen nói: ăn không nói có, lá mặt lá trái, đầu xuôi đuôi lọt, tiếng bấc tiếng ch́, dăi nắng dầm mưa, vui buồn sướng khổ, nói trước quên sau, đi ngang về tắt, vào luồn ra cúi, ngày đêm lặn-lội, một nắng hai sương, than dài thở vắn, đầu tắt mặt tối, cưa đứt đục suốt v.v...
 
                   c- Trong tục-ngữ ca-dao:
 
*Ḥn đất ném đi, ḥn ch́ ném lại. 
*Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.
* Thương nhau lắm cắn nhau đau. 
* Chết cha c̣n chú, chết mẹ bú d́. 
* Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. 
* Nước dưới sông khi mặn, khi nhạt, 
Vận người đời hết nhục, phải vinh 
* Ơn cha nặng lắm ai ơi, 
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang. 
* Con quốc kêu réo-rắt trên ngàn, 
Gà rừng tao-tác gọi con tha mồi.
* Trai nuôi vợ đẻ gầy ṃn, 
Gái nuôi chồng ốm, béo cùn cối xay. 
1.2-  Việt-ngữ cấu-trúc theo lối song trùng: 
Điều này đă được bàn đến trong chương 4 nói về tiếng Việt không ngừng sáng tạo, và trong chương 6 nói về âm và thanh trong tiếng Việt. Đó là các đặc điểm: 
                   a- Hoặc lập lại từ: Ta vẫn thường nói lập lại như: người người, nơi nơi, trời nắng chang chang, xăm xăm băng lối, ăn ăn uống uống, họp họp bàn bàn, đi đi lại lại... 
*Đêm sao đêm tối măi ṃ ṃ.  
(Trần Tế-Xương) 
 
*Đường mây rộng thênh thênh cử bộ. 
(Nguyễn Công-Trứ) 
 
* Trên dưới quyền hành tay cắt đặt, 
Làng nước ai ai cũng cứ lời.  
(Lê Thánh-Tôn) 
 
* Buồn trông nội cỏ rầu rầu, 
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.  
(Nguyễn-Du) 
 
                   b- Hoặc nói kết-hợp từ như: Nết hạnh, ngoan hiền, ngắn gọn, quanh quẩn, lung lay, rung chuyển, rung động, nặng nhọc, cực khổ,, đắng cay, chua xót, rau cỏ, mỡ màng, thương tiếc, thảm thương, thê thảm, thảm thiết, u ám, ngơ ngách, vắn tắt, ngược xuôi, lăn lộn, lặn lội, mốc meo, ẩm ướt, khoan nhân, hiền từ, hiền lành, hiền dịu, la hét, ḥ hét, học hành, gánh vác, ôm ấp, ấp ủ, viết lách, bay bướm, ṿng vo, tan nát, dốt nát, ngay thẳng, cong queo, quá quắt v.v...
 
                   c- Hoặc ghép thêm tiếng đệm như: hay ho, rác rưởi, rác rến, gồ ghề, lác đác, rải rác, lơ thơ, lún phún, lạnh lùng, lạnh lẽo, mát mẻ, nóng nảy, nhớ nhung, rung rinh, dịu dàng, vội vàng, vội vă, lăn lóc, làm lụng, gọn gàng, gọn ghẽ, vất vả, lật đật, đau đớn, xót xa, nhanh nhẩu, chậm chạp, ngỡ ngàng, lỡ làng, thịt thà, cá mú, máu me, mờ mịt, tối tăm, tức tối, lúc nhúc, ngứa ngáy, rửa ráy, khóc lóc, dở dang, tan tành v.v...
 
                   d- Hoặc đơn-giản cụm từ thành c̣n hai từ: Trong cách đếm số, hai mươi lẻ thu gọn thành “hăm”, ví dụ hăm hai, hăm ba, hăm bốm, hăm lăm v... hay một trăm hai mươi, một trăm ba mươi thành trăm hai, trăm ba. Cho nên, ngay trong sự phiên âm tiếng nước ngoài, thường thường cũng dùng cấu-trúc lưỡng âm, chẳng hạn: 
 
                   - Arrosoir (Pháp ngữ 3 âm): cái ô-gioà.
 
- Aérogram (Pháp ngữ 4 âm): tờ ô-gam. 
- Par-dessus (Pháp ngữ 3 âm): áo ba-xuy. 
- Mangoustan (Pháp ngữ 3 âm): quả măng-cụt. 
- Clef (Pháp ngữ một âm): cái lắc-lê. 
                   - Clé à molette (Pháp ngữ cụm từ): cái mỏ-lét. 
 
II- XÉT VỀ MẶT NGỮ-PHÁP 
2.1- Về các loại-từ: 
 
                   a- Phân-biệt tĩnh với động: Người ta nói: con người, con vật, con sông, con thuyền, con đ̣, con đường, con suốt, con dao phân biệt với những sự vật không cử động như cái xiên, cái kéo, cái thớt, cái nghiêng v.v... Cho nên "con" khác với "cái" là vậy. 
 
Chẳng tham ruộng cả ao liền, 
Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ. 
 
Ở đây có sự phân-biệt tỉ-mỉ hơn. Khác với con dao, cái kéo, tuy cũng là vật sử-dụng chuyển-động, song con dao chuyển- động nhiều hơn, người làm bếp có thể lăn lộn, sấp ngửa con dao trên cái thớt bất động, không như cái kéo chỉ đi theo một đường đă vạch. Cho nên không gọi con kéo, con bút là thế. Thực ra cái bút lông mà nhà nho vẫn chấm mực trong nghiên bút làm bằng ngọn trúc, nên thường gọi là cây bút, hoặc cho văn-vẻ gọi là ngọn bút lông; ở đây khi nói cái nghiên cái bút c̣n hàm-ư nói tổng-quát về vấn-đề văn-chương chữ nghĩa như đă đề-cập nơi chương 2 bàn về mạo-từ "cái" trong câu tục-ngữ "cái răng, cái tóc là gốc con người" hay câu ca dao:
 
 Ai ơi chớ lấy Kẻ La, 
Cái dưa th́ khú, cái cà th́ thâm. 
 
                   b- Phân biệt giống đực và giống cái, không có trung tính:
  
Điều hợp-lư là sự phân-biệt giống chỉ áp-dụng cho sinh-vật mà thôi. Tên đệm của đàn ông con trai th́ lót chữ Văn, của đàn bà con gái th́ lót chữ Thị. Chỉ chung th́ phân-biệt con Hĩm, cái Tũn với thằng Cu, thằng Đấy. Cho nên cha c̣n gọi là Bố và Cái c̣n gọi chỉ người mẹ như người xưa đă tôn-sùng Phùng-Hưng làm cha mẹ nhân-dân khi gọi ông là Bố Cái Đại-Vương. Tùy theo tuổi tác mà phân-biệt, trẻ th́ nói chàng đọc sách, nàng quay tơ, anh Tám theo trâu, chị Tư cấy lúa; đứng tuổi th́ chào ông chào bà. Đối với loài vật th́ chó đực phân-biệt với chó cái, gà trống với gà mái, heo nọc với heo nái hay lợn cấn với lợn sề. Đối với loài thực-vật th́ nói đu-đủ đực, đu-đủ cái, nhụy đực nhụy cái. Bởi v́ các sinh-vật là loài có sinh-sản, sự phân-biệt âm dương trên đây là thuận- lư tự-nhiên.
 
          2.2- Sự phân-biệt càng thấy rơ ngay trong cách phát âm với cấu-trúc lưỡng-âm của ngữ Việt:
 
Chữ quốc-ngữ khi kư-âm tiếng nói của người Việt quả đă làm tṛn chức-năng này. Như ở chương 5, chúng tôi đă phân-biệt mỗi từ là do sự kết-hợp hài-ḥa giữa phụ-âm đầu từ với mẫu- âm, mẫu-âm biến-dạng là sự kết-hợp của mẫu-âm chính gốc và phụ-âm cuối từ. Khi ta nói: "Ồ! cô Chương ương như ổi", cách phát âm được phân-tích như sau:
- cô = cờ + ô,
                    - ương = ươ + ngờ, 
                   - chương = chờ + ương.
 
Mẫu-âm chủ đọc mạnh, ấy là nguyên-tố dương; phụ-âm phát âm nhẹ hơn, ấy là nguyên-tố âm. Mỗi từ khi phát âm, phân- tách cho kỹ, là do hai nguyên-tố âm dương kết-hợp lại.
  
B- NGUYÊN-LƯ ÂM DƯƠNG
 
DIỄN-GIẢI ĐẶC-THÙ 
 
I- THƠ LỤC BÁT LÀ MỘT NÉT ĐẶC-THÙ THUẦN-TÚY VIỆT-NAM
  
Như đă đề-cập trong chương 4, chỉ Việt-tộc mới có, một loại thơ thấm-nhuần từ trong huyết-quản, hầu như bất cứ người Việt nào cũng có thể cảm-hứng tự-nhiên, và ca-dao chính là thứ âm-nhạc, ngôn-ngữ phổ-thông đặc-hữu của người Việt- Nam. Trong văn-học Hán-tộc tuyệt-nhiên không có lối thơ này.  
                                      Nghe vẻ nghe ve,
                                      Nghe vè cây trái.  
                                      Dây ở trên mây,  
                                      Là trái đậu rồng.  
                                      Là trái mít ướt.
 
Đoạn vè trên đây, mỗi câu bốn từ là một loại ca-dao phổ-cập. Nếu vè là h́nh-ảnh của tứ tượng, th́ lục bát là miêu-tả của âm dương lục khí bát quái. Cặp lục bát trên sáu dưới tám gọi là một liên, liên-kết một ngắn một dài, nối liền âm với dương, ràng buộc lục khí với bát quái, và ngay trong mỗi câu dù lục hay bát, điệu thơ cũng đi theo nhịp hai thành từng cặp song- hành:  
Núi kia, / ai đắp / mà cao? 
Sông kia, / ai bới, / ai đào / mà sâu? 
 
Về điểm này, tác-giả Lê Công-Tâm biện-luận: "Tám quẻ trong Kinh Dịch gồm có: Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Càn khôn là cha mẹ, sáu quẻ: khảm, cấn, chấn, tốn, ly, đoài là sáu người con do càn khôn sanh ra và c̣n được gọi là lục khí. Cha mẹ v́ đă già nên khó thay đổi, các con c̣n trẻ nên dễ thay đổi v́ thế gọi là lục khí... Theo quan-niệm của Dịch th́ lục khí bao giờ cũng quan-trọng hơn càn khôn cho nên mới có câu “con hơn cha nhà có phúc”(2).  
 
II- ÂM DƯƠNG BIẾN-DỊCH THEO TIẾN-TR̀NH THUẬN-LƯ TỰ-NHIÊN:
 
          2.1- Khởi từ gốc tới ngọn: Cái gốc ấy là mẹ như thấy trong Đạo Đức Kinh của Lăo-Tử: "Thiên hạ hữu thủy dĩ vi thiên hạ mẫu, kư đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Kư tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẫu" (Thế gian có cái bắt đầu lấy làm Mẹ của chúng sanh. Đă tới được nơi Mẹ để biết đến vạn-vật chúng-sanh, đă biết được vạn-vật chúng-sanh lại trở về giữ-ǵn nơi Mẹ). Mẹ đây tượng-trưng t́nh yêu của tạo-hóa bao-bọc các con tạo-vật trong ḷng, cảm thông với đứa con của ḿnh.
 
                   a- Nguyên-lư Mẹ bàng-bạc trong ngữ Việt, vai tṛ của người Mẹ luôn luôn được đề-cao: Tục-ngữ ca-dao nói:  
 
* Chết cha ăn cơm với cá, 
Chết mẹ liếm lá đầu đường. 
* Khôn ngoan đối đáp người ngoài, 
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau! 
Cho nên người Việt mới bảo nhau  
* Nhiễu điều phủ lấy giá gương, 
Người trong một nước phải thương nhau cùng. 
 
Và người dân Việt nhắc-nhở nhau tuy không cùng một bộ- tộc, nhưng tất cả đều cùng một ḍng Bách-Việt mà ra như một trăm con đều cùng sinh ra từ trong một bọc Mẹ Âu-Cơ.  
 
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. 
 
                  b- Tuy nhiên, không những được đề-cao, mà c̣n có phần khác hơn, vai tṛ của người Mẹ lại chiếm ưu- thế, mặc dù không phủ-nhận địa-vị của người cha: 
 
* Giặc đến nhà đàn bà phải đánh.  
* Lệnh ông không bằng cồng bà.  
Bởi vậy, con đi lấy chồng, con dành một quỳ là để tôn-kính quyền cha; nhưng thương cha, con xin dành cho cha ba lạy mà thôi, bốn lạy con để phần cho mẹ, v́ mẹ đứt ruột sanh con:
 
Lạy cha ba lạy một quỳ, 
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng. 
Bởi vậy con mới nói:  
Công cha như núi Thái sơn, 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. 
 
Ở đây lại thấy cặp dương và âm, trên núi cao, dưới biển cả. T́nh mẫu-tử hơn bao giờ hết vẫn là nét đặc-thù của văn-hóa Việt. Người mẹ trở thành biểu-tượng cho quốc-gia:  
 
Thưa Mẹ, quê hương ḿnh đă chết rồi, 
Mẹ ơi, Mẹ Việt-Nam ơi! 
(Lời nhạc Nguyễn Đức-Thành)
 
         2.2.- Chính từ gốc mẹ to lớn tới ngọn ngành bé con mà các sự vật được chỉ-danh phân-biệt với nhau từ chính- yếu tới phụ- thuộc  
Nói về gà người ta phân biệt gà hoa mơ, gà mái tơ, gà gị, gà gi, gà ác, gà trống, gà mái. Gà là gốc mẹ mà hoa mơ, mái tơ, gị, gi, ác, trống hay mái là các ngành con của gà mẹ. Cũng vậy, ta nói hoa đào, hoa cúc, hoa mai, hoa lan, hoa huệ, hoa lài, hoa ngâu; lá xoài, lá mít, lá dâu, lá chanh, lá bưởi, lá trầu, lá sung. Khi nói gà, hoa, lá người ta đă có ngay khái- niệm h́nh-dung sự vật chính-yếu, rồi sau đó mới thấy rơ mỗi thứ phụ-thuộc. Cũng như đă đề-cập ở chương I, ta nói gió mát trăng thanh hay rồng vàng ngựa trắng, chứ không mát gió thanh trăng hay vàng rồng trắng ngựa như người Trung- Hoa Hán-tộc vẫn nói thanh phong minh nguyệt hay hoàng long bạch mă.
 
 
C- ẤY LÀ DO CÁI NH̀N CỦA DỊCH-LƯ ÂM DƯƠNG NHẤT-QUÁN
 
 
I- VỪA PHÂN-TÁN NHỊ NGUYÊN, VỪA HUYỀN- ĐỒNG NHẤT THỂ:
 
 
"Vạn vật âm nhi bảo dương. Xung khí dĩ vi ḥa" (Trong vạn vật, không vật nào mà không cơng âm và bồng dương. Nhân chỗ xung nhau mà ḥa với nhau).
 
 
Cũng v́ vậy mà huyền-thoại Lạc-Long-Quân và nàng Âu-Cơ được viết lên trang đầu của lịch-sử Việt-Nam: "Ta đem 50 con về thủy-phủ, phân-trị các xứ, c̣n 50 đứa theo nàng ở trên đất chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống biển nhưng có việc th́ cùng nghe, không được bỏ nhau".
 
 
 
Giáo sư Khiếu Đức-Long phân-tích từ-nguyên như sau:“Lạc-Long-Quân là tên ghi bằng chữ Hán có nghĩa là Bố Rồng dưới nước: long-quân là vua rồng (vua, âm cổ là "bua" như phân bua, bua và bố tương-cận về âm và nghĩa, người xưa quan-niệm vua là người cha, gia-trưởng gia-đ́nh lớn là quốc-gia, nên thế-kỷ thứ VIII, Phùng-Hưng được suy-tôn là Bố Cái Đại-Vương); c̣n "lạc" là biến thể Hán-hóa lâu đời của "nác" (nác có nghĩa là nước, một số vùng Thanh-Hóa đến Nghệ-An mà chúng tôi có dịp đi qua hồi c̣n niên thiếu c̣n nói  "nác" = cho xin miếng nác nghĩa là cho xin ngụm nước).
 
Âu Cơ, một âm là "ẩu" có nghĩa là "bà mẹ", ngoài ra c̣n có chữ "khu" cho ra tiếng "g̣", cả tên có nghĩa là bà mẹ trên g̣ (3).
  
Bố Rồng (+) ở dưới mước (-) là trong dương có âm, trong cương có nhu; Mẹ Tiên (-) ở trên núi (+), ấy là trong âm có dương, trong nhu có cương. Lại cho dù phân tán kẻ ở bên này người ở bên kia, nhưng khi cần vẫn gọi nhau để cùng chung lưng đấu cật mà lo-liệu mọi bề. Rơ là “một sự kết-hợp hài- ḥa: vừa chia đôi để phát-triển (mở rộng địa-bàn sinh-hoạt) vừa kết-hợp để tạo sức mạnh (núi cung-cấp lâm-sản như gỗ làm nhà, biển cung-cấp thủy-sản, đặc-biệt muối rất quư đối với người miền núi).” (3)
 
Ấy là âm dương điều-ḥa. "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", bầu bí ấy là phân tán nhị nguyên, chung một giàn ấy là huyền đồng nhất thể. Cá-tính, hoàn-cảnh khác nhau, nhưng đều hợp chung về một mối.
 
Trong các huyền-thoại Rồng Tiên, Sơn-Tinh và Thủy-Tinh, kẻ ở trên non, người ở dưới mước, kẻ cứng rắn hùng-mạnh, người mềm-mại dịu-dàng, xung-khắc nhưng lại hài-ḥa, luôn luôn âm dương song-hành. Những cặp danh-từ đất nước, non sông, giang-sơn, sơn-hà, xă-tắc được dùng làm biểu-tượng cho tổ-quốc là vậy.
 
II- CÁI LẼ HUYỀN-ĐỒNG NHẤT-THỂ ẤY LÀ TUÂN THEO LUẬT PHẢN-PHỤC CỦA TẠO-HOÁ:
 
Cho con người thấy được chỗ đứng của ḿnh trong tam tài mà t́m ra đạo sống thái-ḥa.
 
"Vạn vật tinh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục kỳ qui căn" (Vạn vật đều cùng sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc. Ôi, mọi vật trùng trùng đều trỏ về cội rễ của nó). Vật cùng tắc phản, vật cực tắc biến. sự vật bao giờ cũng phản biến, mà đă biến tất biến thành cái đối-đích của nó.  
 
          2.1- Thấy chỗ đứng của ḿnh trong tam tài, cho nên ngôn-ngữ Việt nhắc-nhở rằng: được không nên vội mừng, mất không nên vội buồn. Ấy là giữ được trung-dung quân- b́nh nội-tại. Ca-dao có câu:
  
Cười người chớ vội cười lâu, 
Cười người hôm trước, hôm sau người cười. 
Tục-ngữ cũng có nói: "Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời", là bởi v́:  
Nước dưới sông hết trong c̣n phải đục, 
Vận người đời hết lúc nhục phải vinh. 
 
Nguyễn Công-Trứ v́ vậy mới an vui tự tại, thung-dung b́nh- thản mà rằng:  
"Khó ai bằng Măi-Thần, Mông-Chính, rồi cũng có khi ngựa cưỡi dù che; giàu ai bằng Vương-Khải, Thạch-Sùng, rồi cũng có lúc tường xiêu ngói đổ". 
 
         2.2-  Thấy rơ chỗ đứng của ḿnh trong tam tài, ấy là biết nhận-diện bản-thân, ḥa-đồng vào ngoại-giới, hài-ḥa với tha-nhân. Cho nên ông cha ta mới dạy rằng:
 
Trông người lại gẫm đến ta, 
Thử sờ lên gáy xem xa hay gần. 
 
                   a- Biết nhận-diện bản-thân: Cho nên con người như "Kẻ Sĩ" của Nguyễn Công-Trứ, ư-thức được ḿnh là trung-tâm điểm của vũ-trụ, là kết-tinh của trời đất, là giao- thoa của âm dương, nhờ vậy mà tràn đầy hạo-nhiên chính- khí: 
 
Khí hạo-nhiên chí-đại chí-cương, 
So chính-khí đă đầy trong trời đất. 
 
để nhận lấy mọi trách-nhiệm với trời đất, với nợ nước t́nh nhà:  
 
Đă mang tiếng ở trong trời đất,
 Phải có danh ǵ với núi sông.
 
Và bà Huyện Thanh-Quan cũng đă dừng chân nơi Đèo Ngang với cái nh́n bao-quát vũ-trụ, ḥa-đồng vào ngoại-giới, để rồi trở lại chiêm-nghiệm bản-thân lắng nghe ḷng dạt-dào t́nh yêu thiên-nhiên, xôn-xao t́nh yêu cội nguồn, khắc-khoải t́nh nhà t́nh nước chan-ḥa trong khí âm bao la của Đất và trong khí dương bát-ngát của Trời:  
Dừng chân đứng lại trời, non nước, 
Một mảnh t́nh riêng ta với ta. 
 
                  b-  Không như Hán-tộc hiếu-chiến, người dân Bách-Việt vốn hiếu-ḥa chăm lo tăng-gia sản-xuất, ăn nói từ-tốn khoan-thai, "biết đường lui tới, biết đường phải chăng", những mong ḥa-hợp với mọi người, thích-nghi với mọi hoàn-cảnh, "ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài", cho nên truyền miệng bảo nhau:
  
Chồng giận th́ vợ bớt lời, 
Cơm sôi nhỏ lửa một đời chẳng khê. 
Chồng giận th́ vợ làm lành, 
Miệng cười hớn hở rằng anh giận ǵ? 
 
Trong đạo xử-thế "dĩ ḥa vi quư", lấy sự ḥa-hợp làm tốt đẹp cho nên phải biết nghĩ tới nghĩ lui, "một câu nhịn là chín câu lành", bởi "già néo th́ đứt dây": 
 
Bên trái thẳng, bên phải chùng, 
Cả hai cùng thẳng th́ cùng đứt dây. 
 
         2.3- Thấy chỗ đứng của ḿnh trong tam tài, nên với lẽ sinh-tồn, người dân Việt mới có một triết-lư hành-động:  
 
a-   Làm chủ cuộc sống:          
*  biết khắc-phục thiên-nhiên đất đai:  
 
Trông trời, trông đất, trông mây, 
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm 
Trông cho chân cứng đá mềm, 
Trời êm bể lặng mới yên tấm ḷng" 
 
*   Biết làm chủ ngoại-cảnh:  
Đă sinh ra kiếp làm trai, 
Đèo cao, núi thẳm, sông dài quản chi! 
để bằng chính thực-lực của ḿnh mà làm nên sự-nghiệp: 
 
Nước lă mà vă nên hồ, 
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan. 
ngơ hầu đem xương máu bảo-vệ cơ-đồ, lưu tiếng thơm cho muôn đời về sau:  
 
Làm sao cây quế trên non, 
Trăm năm khô héo, vỏ c̣n thơm tho.
 
Đấy chính là cái tinh-thần tự-chủ của bà Nữ-Oa đội đá vá trời, của Kỳ-Mạng trong huyền-thoại "Sách Ước của thần Tản-Viên".  
 
Triết-gia Kim-Định giải-nghĩa Kỳ-Mạng là "làm chủ vận mệnh của ḿnh". Truyện kể rằng một đứa bé bị bỏ rơi trong rừng, được chim ấp ủ, dê rừng cho bú, sau được người tiều phu lượm đem về nuôi đặt tên là Kỳ-Mạng. Lớn lên Kỳ- Mạng đi đốn củi mưu sinh. Cây đại-thụ đốn từ sáng tới chiều, măi không xong, v́ hôm sau trở lại đốn tiếp th́ vết chặt hôm trước đă liền lại. Mấy ngày liền ra công đốn đều vô-hiệu. Rồi một hôm chờ tới nửa đêm, Kỳ-Mạng ŕnh bắt gặp một bà lăo cầm gậy trỏ vào quanh cây, vết chặt lại liền ngay. Bà lăo cho biết lư-do là bà ngụ trên cây, bà không muốn ai đốn cây này, rồi bà cho Kỳ-Mạng cây gậy thần. Nhờ chiếc gậy thần, Kỳ-Mạng giúp đỡ kẻ ốm đau. Một hôm, gặp con rắn bị trẻ chăn trâu đập chết, vứt ở bờ sông, Kỳ-Mạng dùng gậy thần cứu sống con rắn. Vài hôm sau, kẻ lạ xưng là Tiểu-Long-Hầu đến tạ ơn Kỳ-Mạng đă cứu sống ḿnh hôm trước. Nhận lời mời Kỳ-Mạng theo Tiểu-Long xuống chơi thủy-phủ, trở về được Long-Quân biếu tặng quyển Sách Ước để ước ǵ được nấy. Về sau nhờ có đủ uy-quyền sức mạnh, Kỳ-Mạng rong-ruổi đó đây cứu nhân độ thế. Chán cảnh trần-tục, Kỳ-Mạng lên núi Tản-Viên ở luôn đấy. Đó là sự-tích thần núi Tản- Viên (4).
 
                   b- Cái tinh-thần tự-chủ ấy thể-hiện triết-lư hành-động, nhập-thế: Tích-cực chủ-động và chấp-nhận thực-tại của cuộc sống, chứ không tiêu-cực xuất-thế mà thụ-động quan-niệm đời là ảo-ảnh phù-du hay coi đời là giấc mộng như tư-tưởng Lăo-Trang trong thơ Lư-Bạch:
 
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh?
 
 
Cho nên không quan-niệm thiên-mệnh là định-mệnh khắc- nghiệt và thuận thiên-mệnh không có nghĩa là cúi đầu khuất- phục định-mệnh. Ca-dao nhắc-nhở ta rằng:
 
Đừng nên trông đợi ở trời,
Hăy tin vào sức con người lớn lao.
 
Nguyễn-Du mới khẳng-định:  
 
Có trời mà cũng có ta, 
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
 
Bởi v́: "Xưa nay nhân-định thắng thiên cũng nhiều" và Nguyễn Công-Trứ đă cương-quyết: 
 
Đố kỵ xá chi con tạo, 
Nợ tang bồng quyết trả cho xong. 
 
III- THẤY CHỖ ĐỨNG CỦA M̀NH TRONG TAM TÀI, CHO NÊN NGƯỜI VIỆT TRỌNG TINH-THẦN TỰ- CHỦ, THUẬN THIÊN, tuân theo trật-tự tự-nhiên của trời đất, không ưng làm điều ǵ nghịch với thiên-lư.  
 
         3.1- Ấy là trong nhân-vị, lấy nhân-bản làm gốc: Để bảo-vệ chế-độ phong-kiến, Hán-nho diễn-giải dịch-lư trái ngược với lẽ tự-nhiên khi đề ra tam cương, tam ṭng hay phân biệt giai-tầng tứ dân để xây-dựng trật-tự xă-hội.  
 
                   a- Tam cương: Buộc phải chu-toàn ba đạo, trước hết là quân thần, thứ đến là phụ tử, sau cùng mới là phu phụ. Dịch-lư Việt th́ trái lại xác-nhận nghĩa vợ chồng làm trước:  
 
Một duyên hai nợ ba t́nh, 
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ T́nh là ba. 
Chữ Trung th́ để phần cha, 
Phần Mẹ chữ Hiếu đôi ta chữ T́nh. 
 
Cho nên cha mẹ không ưng, th́ cũng nhẹ lời năn-nỉ:  
Cây kiềng vàng đeo lâu chẳng bỏ, 
Đôi lứa ḿnh c̣n nhỏ c̣n thương. 
Dầu mà cha mẹ không thương,
Hai đứa trải chiếu ngoài đường lạy vô. 
 
Hoặc nặng hơn th́:  
Ngày xưa ai ép duyên bà, 
Bây giờ bà già, bà ép duyên con. 
 
C̣n nghĩa-vụ đối vua quan vẫn là thứ-yếu: 
Quan dẫu cần, nhưng dân chưa vội, 
Quan có vội, quan lội quan đi.
 
Dưới mắt người Việt, "miệng quan, đít trẻ", "phép vua thua lệ làng". Những truyện như Trinh-Thử, Trê Cóc là ngọn roi trào-phúng quất vào mặt chế-độ quan-lại phong-kiến, là những tiếng kêu đối-kháng với chủ-trương tôn quân-quyền. Riêng ở trong truyện Trê Cóc, th́ rơ ràng là thiên-lư thắng tà- tâm. Con Trê và ngay cả cường-quyền cũng không qua mặt được thiên-lư. Trê có nhận vơ con Cóc làm con ḿnh th́ lẽ trời đă định, cuối cùng con Cóc vẫn là con Cóc mà thôi.  
 
                   b- Tam ṭng: Giam hăm người phụ-nữ trong hàng rào lễ-giáo khắc-nghiệt phi-nhân: phu tử ṭng tử. Ở nhà, thờ cha mẹ; lấy chồng, theo nhà chồng đă đành, nhưng chồng chết th́ phải ở vậy thủ tiết thờ chồng theo con. Cái trật-tự này hoàn-toàn không biết đến nhân-vị con người, đó không phải là triết-lư nhân-bản lấy con người làm gốc. Cho nên với khát- vọng quyền làm người, người goá-phụ Việt đă mĩa-mai cúng chồng mà xin phép người chết để đi thêm bước nữa:
 
Giàu th́ thịt, cá, cơm, canh,
Khó th́ lưng rau đĩa muối, cúng anh, tôi đi lấy chồng.
Hỡi anh chồng cũ của tôi ơi!
Anh đă khôn thiêng, xin anh trỗi dậy ăn xôi nghe kèn.
Thôi anh đă về kiếp ấy xin đừng ghen,
Để cho người khác cầm quyền thê nhi.
 
Như đă đề-cập, người con gái trong Kinh Thi của Khổng-Tử, một thứ văn-học dân-gian của Trung-Hoa cổ xưa, vẫn phảng- phất h́nh-ảnh của một thứ nô-lệ cho giáo-điều khắt-khe phi- nhân, phi-lư chỉ biết "cúi đầu nép xuống sân mai một chiều", người con gái Việt th́ trái lại, vùng lên chống cái thứ tam ṭng mà Hán-Nho đem sang áp đặt đi ngược lại với truyền- thống Việt, với bản-năng con người, để gào lên những khát- vọng thực sự của con tim, nói lên cái tinh-thần nhân-bản trong đời sống. Họ đă chẳng ngần-ngại mà táo-bạo trả lời rằng:  
 
Đi đâu mà chẳng lấy chồng, 
Người ta lấy hết chổng mông mà gào. 
Gào rằng: "Đất hỡi, Trời ơi! 
Sao không thí bỏ cho tôi tấm chồng? 
 
Hoặc nói thẳng ra lời than-thở với nỗi ấm-ức trong ḷng:
 
Tṛng trành như nón không quai, 
Như thuyền không lái, như ai không chồng 
Gái có chồng như gông đeo cổ, 
Gái không chồng như phản gỗ long đanh. 
Phản long đanh, anh c̣n chữa được 
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi 
Không chồng khổ lắm chị em ơi!
 
                   c- Giai-tầng xă-hội: Hán-Nho phân biệt gồm tứ dân: sĩ, nông, công, thương; người b́nh-dân Việt-Nam đă lật đổ thành "nhất sĩ, nh́ nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nh́ sĩ". Hoặc lên tiếng phá bỏ kỳ-thị giai-cấp, chỉ v́ muốn đ̣i quyền tự-do:
 
Con vua lấy thằng bán than,
Nó đem lên ngàn cũng phải đi theo.
Con quan đô đốc, đô tài, 
Lấy thằng thuyền chài, cũng phải lụy mui. 
 
          3.2- Ấy là trọng nhân-đạo, lấy đức nhân làm đầu:
 
Khác với Hán-Nho quan-niệm là "nhân giả nhân dă" như nói trong sách Trung Dung của Khổng-Tử. Chữ Nhân, hán-tự gồm có chữ nhân đứng bên chữ nhị, như vậy đức nhân hàm ngụ mối tương quan giữa người với người. C̣n đức nhân của Việt nho không phải chỉ gồm cách đối xử với người mà c̣n cả mọi loài sinh vật. Kỳ-Mạng được Long-Quân biếu tặng sách ước, là v́ Kỳ-Mạng đă dùng gậy thần cứu sống con rắn, hiện-thân của thần Tiểu-Long. Học-giả Thái-Văn-Kiểm kể lại, sách xưa nói rằng: "Vào mùa đông mới phân-biệt được kẻ giàu người nghèo. Mùa đông lạnh-lẽo mưa phùn gió bấc, khiến cho cảnh vật tiêu-điều đời sống khó-khăn. Người và thú vật cùng tranh nhau đi kiếm ăn. Người mặc áo ấm, mang cung tên vào rừng săn bắn chim muông. Giữa chốn rừng sau bên bờ suối, người chợt thấy con rái bắt được con cá, mang lên bờ đặt cá trước mặt, ngửng đầu chắp tay vái lạy trời đất rồi mới bắt đầu ăn. Con rái biết cảm tạ trời đất đă gíúp cho hắn món ăn, rất hiếm-hoi giữa mùa đông băng giá. Nh́n thấy cảnh-tượng này, người đi săn xúc-cảm mà nương tay, dẹp cung tên ra về. Cho nên người xưa gọi con rái là Tế-Vật Thú hay là Lại-Tế Ngư, con rái biết tế trời. Và người đi săn đă khéo đặt đức nhân lên trên hết, để xứng-đáng là con người đứng trên tất cả mọi giống vật: "Nhân ư vạn vật chi linh" (5). Chẳng thế mà nhà nông đă coi con Trâu là người bạn chí- thiết:
 
Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. 
Cấy cầy vốn việc nông gia, 
Ta đây trâu đấy ai mà quản công. 
Bao giờ cây lúa c̣n bông, 
Th́ c̣n ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
 
Nương theo đạo sống Thái-Ḥa, cho nên ư-niệm Rồng Tiên ghi trên trang đầu lịch sử là muốn nói lên tinh-thần đồng- tâm nhất-trí, chống phân-hóa chia rẽ, lấy đoàn-kết làm lẽ sinh-tồn, là muốn nêu lên đạo Trung-Dung vừa cứng rắn vừa nhu-hoà, cũng như cây tre là biểu-tượng đức khôn- ngoan của dân Việt, tuy mềm-mại nhưng không ngă gục, trước băo-tố bạo-lực không găy đổ chỉ v́ biết mềm dẻo mà vẫn rắn-rỏi bất-khuất, ấy là biết tới biết lui, ấy là lấy nhu thắng cương. Trong huyền-thoại Sơn-Tinh (nhu) và Thủy- Tinh (cương), cuối cùng Sơn-Tinh thắng thế. Lịch-sử đă từng xác-minh ư-chí của tổ-tiên tuy cương-quyết mà cũng biết hài- ḥa. Thế nước biến, nên ḥa hay nên chiến? Hội nghị Diên- Hồng đồng-thanh quyết-chiến. Thế nhưng b́nh-định xong ta lại saí sứ sang Tàu giao-hảo. Ấy là do cái đức nhân đặc-thù mà Lê-Lợi từng “lấy nhân giết lũ bất-nhân, lấy chính dẹp phường bất-chính, đem đại-nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí- nhân mà thay cường-bạo”.
 
*   *
 
*
Tóm lại dịch-lư Việt-Nam có nét đặc-thù riêng biệt, gói- ghém ngay trong ngôn-từ, ngữ-pháp và cú-pháp, bàng-bạc trong văn-chương truyền miệng, một nền văn-học bất-diệt, một chứng-tích văn-hóa sống động, hùng-hồn và trường- cửu từ ngàn xưa c̣n để lại.
 
Việt-tộc bị xâm-lăng, một số bị đồng-hóa với Hán-tộc, số c̣n lại lập nên tổ-quốc Việt-Nam, nhưng lại bị thu-hồi sách vở. Kho tàng văn-hóa của tổ-tiên bị tịch-thu, dĩ-nhiên, khi sang nhượng, nó được biến-hóa cho thích-nghi với trật-tự mới, để bảo-vệ chế-độ mới, chế-độ phong-kiến đào-tạo nên các Hán- nho, chỉ biết cúi đầu vâng phục những giáo-điều bóp méo triết-lư nguyên-thủy cho phù-hợp với chủ-nghĩa mới. Tài-liệu Bách-Việt Tiên-Hiền Chí trong đại-bộ Lĩnh-Nam Di-Thư của Trung-Quốc mà triết-gia Hán-Chương khai-quật cộng thêm với chứng-tích của nền văn-minh Trống Đồng cùng nền văn-học dân gian c̣n truyền miệng măi măi ngàn đời là một biện- minh hùng-hồn. Dịch-lư ấy khai-nguyên nền Việt-Triét đă đóng góp cho văn-hóa Hán-tộc và làm thành văn-hóa Việt- Nam cho đến nay.
 
Dịch-lư ấy nói lên nhân-sinh-quan và vũ-trụ-quan Việt với nét độc-đáo riêng"  
 
         *  Nó dung-hoà hai cái đối nghịch. Nó chống lại phân-hóa chia rẽ, kết-hợp mọi cá-tánh, mọi hoàn-cảnh, nếp sống. Cổ tích Trầu Cau với dây trầu nhu-động và cây cau cương- tĩnh là biện-chứng cho chủ-thuyết nghĩa t́nh ḥa-hợp.
 
*  Nó nói lên tâm-thức Việt-Nam với cái nh́n vừa thiết-thực mà vừa siêu-thực:
Thà ăn cáy, ngáy o o, 
C̣n hơn ngay ngáy ăn ḅ làm chi. 
 
Cái nh́n ấy rất thực-tiễn mà cũng rất mơ mộng thanh-thoát tự-do. Thằng Bờm thẳng-thắn trả lời coi khinh vật-chất mà thế-gian vốn coi trọng chỉ v́ thằng Bờm vốn để tâm không, yêu thích tự-do, ham mê phóng-khoáng. "Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười". Cái cười hồn-nhiên mà sâu sắc ấy là do cái nh́n thừa-bẩm khí huyết của ḍng giống Rồng Tiên vậy.
 
Cước-chú: 
 
(1) Vũ Đ́nh-Trác: Triết lư truyền thống Việt tộc dọn đường cho Thần học Việt Nam, tạp chí Định Hướng số 11, 1996.  
Cước-chú bổ-túc ghi thêm ở dưới (*) 
(2) Lê Công-Tâm: Vài suy nghĩ về mối liên hệ giữa tiếng Việt và văn hóa Việt, tạp chí Định Hướng số 5, 1994.  
(3) Khiếu Đức-Long: Đặc tính gốc nước của văn hóa Việt Nam, Vietnamologica, số 1. 1995, trang 176-177.  
(4) Kim-Định: Cơ Cấu Uyên Nguyên, Hội Hữu tập san, Việt học Hàn Lâm Giáo Sĩ Việt Nam Hải ngoại chủ trương, số 3, ngày 15-3-1986. 
(5) Thái Văn-Kiểm: Triết Việt, Đông Hồ và Triết Lư Nhân Sinh Vietnamologica, số 1, 1995, trang 141.
(trích “Tiếng Việt Tuyệt-Vời”, chương 8, ấn-bản lần 2, 
Đỗ Quang-Vinh, Toronto, 2000)
 
e-mail: doquangvinhvenguon@yahoo.com
 
------------------------------------------------------------------------------------
 (*) BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ, Trong dịp biện-tŕnh tại Đại-học Sophia, Tokyo, năm 1984, luận-án triết-học “Vietnamese Humanism According to Nguyễn Du”, học-giả Vũ-đ́nh-Trác đă t́m thấy tàng-trữ tại thư-viện đại-học Đông-Kinh tập “Bách Việt Tiên Hiền Chí”, sau này ông đem giới-thiệu trên tạp-chí Hội-Hữu (kể từ số 3, ngày 15-3-1986), ông viết: “Chúng tôi cống-hiến văn-học giới Việt-Nam tập tài-liệu cổ quư giá nhan-đề BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ, trích trong Đại Bộ Lĩnh Nam Di Thư của Trung Quốc”, với phần Hán-văn và dịch nôm, mà theo ông đây là “tài-liệu ruột cho các nhà khảo cổ và nhân-chủng học, cũng như cho các nhà văn-hoá Việt-học đang xây-dựng cho Việt-Triết Việt-Nho.”  Mười năm sau, trong bài tham-luận “Triết-Lư Truyền-Thống Việt-Tộc Dọn Đường Cho Thần-Học Việt-Nam” đăng trong quư-san Định-Hướng (số 11 mùa Đông 1996), ông lại nhắc tới: “Chúng tôi long trọng tuyên cáo: chúng ta c̣n hai ẩn-lộ có thể trở về nguồn. Đó là tập tài-liệu cổ bằng Nho văn: Bách Việt Tiên Hiền Chí và Trống Đồng Việt tộc.”
 
 Ở đây, người viết muốn chứng-minh ngoài hai ẩn-lộ trên, c̣n thêm một chứng-tích thứ ba sống động nữa là hồn nước với triết-lư âm dương bàng-bạc ngay trong tiếng Việt nói chung và, trong một bài viết khác triển-khai, triết-lư ấy cũng thể-hiện ngay trong thơ Việt nói riêng, đó là “Hồn Nước Trong Thơ Việt”
 
(**) TIẾNG VIỆT TUYỆT-VỜI, ấn-bản lần thứ nhất, Làng Văn xb, Toronto, 1994; lần thứ 2 tăng-bổ, tác-giả xb, Toronto, 2000.
·        Một khảo-luận với những biện-chứng linh-hoạt “lột được những tinh-tuư hấp-dẫn của tiếng Việt”: 1- Tiếng Việt hiện-đại. 2- Tiếng Việt giàu tứ. 3- Tiếng Việt giàu từ. 4- Tiếng Việt không ngừng sáng-tạo. 5- Tiếng Việt duyên-dáng dí-dỏm; Tiếng Việt duyên-dáng bóng-bảy; Tiếng Việt duyên-dáng du-dương. 6- Âm và Thanh trong Tiếng Việt. 7- Tiếng Việt và vận-mệnh quốc-gia. 8- Tiếng Việt với triết-lư âm dương và đạo sống thái-hoà.
 
·        Học-giả Hán-Chương Vũ-đ́nh-Trác nhận-định về ấn-bản I (1994)
 
      “Khi đọc Tiếng Việt Tuyệt-Vời, ta thấy rằng tiếng Việt là một âm-thanh quen thuộc của mọi người Việt, nhưng ông đă lột được những tinh-tuư hấp-dẫn của tiếng Việt, để người ḿnh tự xác-nhận được cốt-cách hoa-mĩ của ḿnh, đặc-biệt để người ngoài thấy được vẻ sáng đẹp của người ḿnh (Công-Giáo Việt-Nam Trong Truyền-Thống Văn-Hoá Dân-Tộc, Chương VII, Các văn-hữu thời mới, tr, 313, Petrus Vũ Đ́nh Trác, Orange, California, 1996)
 
·        Nhà nghiên-cứu Nguyên Nguyên nhận-định về ấn-bản II (2000) trong trang web:  www.dunglac.net/nguyennguyen/TiengViet.htm
 
hoặc:         www.dunglac.net/ => biên tập_tác giả => nguyen nguyen
 
 e-mail: doquangvinhvenguon@yahoo.com
 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17