Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp

Nguyễn Cung Thông

24 tháng 08 năm 2006

(phần 1)

1. Giới thiệu tổng quát
 
T́m hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta t́m về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con giáp là Tư/Tử, Sửu, Dần, Măo/Mẹo, Th́n/Thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/Vị, Thân/Khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nh́n th́ thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc (hay Trung Hoa, tắt là TH) v́ là những từ Hán Việt (HV).Khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ hay có một khuynh hướng tổng quát chung nào đó th́ những dạng này cần được so sánh với những từ khác với nguồn gốc không phải là Việt, Thí dụ như trong các từ liên hệ đến xe hơi chẳng hạn, ta thấy các dạng như pan (xe bị pan), phanh (thắng), láp, két nước (tử két), đèn pha, máy bơm xăng, ống bơm, xăng, ḥn (viên) bi, bị giơ (lỏng), cái van, dây cáp (điện), dây xên, con vít, sạc điện …v…v... không kể các từ đa âm khác như bugi, táp-lô, rô-đa, mỏ-lét, rờ-le, bù-loong … So với tiếng Pháp và tiếng Anh hiện nay (không khác ǵ nhiều trong ṿng trăm năm nay)
 
            Tiếng Việt           Pháp                             Anh
 
            Pan                              panne (bị hư)                           out of order
            Pha                              phare (đèn trước)                    headlight
            Bi                                bille (viên đạn)                         ball      
            Giơ                              jeu (lỏng)                                 loose, worn out
            Sạc                              charge (thêm điện cho đủ)        charge
            Van                             valve                                       valve
            Vít                               vis                                           screw
            Két                              caisse (tủ, b́nh chứa)               tank
            Cáp                             cable (dây điện)                       cable
            Xăng                           essence                                   gas, petrol
            Bơm                            pompe                                     pump
            …v…v…
 
Rơ ràng là các từ trên tương ứng với tiếng Pháp rất chặc chẽ so với tiếng Anh, hay một ngoại ngữ nào khác - người viết dùng tiếng Anh và Pháp để so sánh v́ lịch sử cận đại cho thấy nhiều liên quan giữa nước Pháp, nước Mỹ với VN. Ngoài ra, kỹ thuật chế tạo, lắp ráp và bảo tŕ xe hơi (ô tô) là từ các nước Âu Châu trên. Nếu mở rộng đề tài ra th́ ta có các tiếng Pháp khác nhập vào tiếng Việt như bót/bốt (đồn cảnh sát), ông cẩm (commissaire), nhà ga (trạm xe lửa), lô, kư (kilogramme), xạc (sacrer, bị mắng), cuốc (xe cuốc, course, xe đua), cúp (coupe), cà-lem, kem (crème) ..v..v.. Phần lớn các từ mượn từ tiếng Pháp có phạm trù giới hạn và thường là thuật ngữ. Cách viết văn (cú pháp) và thành lập chữ của bị ảnh hưởng phần nào qua giao lưu văn hoá với Pháp : như cách dùng bàn giấy, giết thời gian …  Trong các bài sau, người viết sẽ chú trọng đến sự so sánh các từ, các biến âm và phạm trù ngữ nghĩa của chúng. Giao lưu văn hoá với Pháp xẩy ra chỉ gần đây (hai trăm năm trở lại và càng ngày càng ít đi từ thời kỳ thuộc địa), thành ra các dạng biến âm rất dễ tra ra, cũng như từ phạm trù nghĩa giới hạn của chúng. Trở lại với tên 12 con giáp, thời kỳ giao lưu văn hoá với TH đă xẩy ra rất lâu (ít nhất đă hơn hai ngàn năm, so với hai trăm năm) và từng đợt chất chồng lên nhau, thêm vào đó là các tài liệu rất mơ hồ và thường hàm ư là tên 12 con giáp là của TH (một tiền đề không ai dám tranh căi hay t́m ra ngọn ngành một cách rơ ràng và khoa học). Các tài liệu lại thường viết bằng chữ Hán, thêm và tiền đề (hầu như là một ‘công lư’ không ai chối căi đuợc ?) về nguồn gốc TH hợp với cách viết chủ quan và đầy tự ái dân tộc của một số tác giả TH càng làm vấn đề trở nên phức tạp hơn nữa. Nh́n lại bảng so sánh một số tiếng Việt trong lănh vực kỹ thuật (xe hơi) như trên, dù ai có tự ái dân tộc lớn đến đâu cũng không thể chối căi quá tŕnh mượn từ tiếng Pháp vào tiếng Việt, thêm vào đó là các tài liệu sách vở trong ṿng hai thế kỷ qua dễ cho chúng ta kiểm lại kết luận này. Thực ra, sự vay mượn qua lại là một hiện tượng rất tự nhiên của ngôn ngữ loài người, chính sự thuần nhất (pure) ngôn ngữ mới là hiếm có hay là ngoại lệ ! Cũng như hiện tượng thuần chủng (pure race) vậy – cũng chính cách nh́n hạn hẹp từ sự thuần chủng mà đă xẩy ra bao nhiêu tai hoạ như Đức Quốc Xă với giống Aryen, chính sách White Policy hay nước Úc cho ‘người da trắng’ chẳng hạn ….– và cũng chính thái độ ù lỳ không chấp nhận ‘ḿnh vay của người’ mà nhiều sai lầm đă xẩy ra, ngay cả cho một số công tŕnh nghiên cứu trong quá khứ. Tiếng Nhật và tiếng Đại Hàn có nhiều từ gốc Hán, tiếng Anh/Pháp cũng đầy các từ gốc La-Tinh, Hi-Lạp … chẳng nước nào có ‘mặc cảm chữ nghĩa’ đâu ? Với các cảnh giác trên th́ ai là chủ nhân của tên 12 con giáp ?
 
2. Vài nhận xét sơ khởi về tên 12 con giáp
 
2.1 Tên 12 con giáp đọc như tiếng HV, theo giọng Bắc Kinh (BK) và bằng cách ghi theo Phiên Âm (pinyin) là zĭ, chŏu, yín, măo, chén, ś, wǔ, wèi, shēn, yŏu, xū, hài hoàn toàn không liên hệ đến cách gọi (tên) 12 con thú trong tiếng TH hiện nay – ngay cả giọng Quảng Đông (QĐ) ..v..v.. Khi phục hồi âm TH thời Thượng Cổ (Archaic Chinese) th́ vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vật thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú tương tự như tên 12 con giáp th́ dân tộc đó phải có liên hệ rất khắn khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này. Cũng như khi so sánh các từ về xe hơi phần trên, ta có thể đi dến kết luận là tiếng Pháp đă cho tiếng Việt mượn trong thời kỳ giao lưu văn hoá cận đại1. Nhưng người viết không đi sâu thêm nữa để t́m hiểu các danh từ tiếng Pháp trên có nguồn gốc ở đâu. Xin nhắc lại ở đây là các bài này viết về nguồn gốc tên 12 con giáp, c̣n nguồn gốc 12 con giáp ở đâu ra không nằm trong phạm vi các phần sau.
 
2.2 Tại sao TH dùng con thỏ thay cho con mèo (biểu tượng của chi Măo/Mẹo) ? Xem cách viết chữ miêu (con mèo, giọng BK là māo) bằng bộ trỉ hợp với miêu (mầm mống, hài thanh) so với thỏ là chữ  tượng h́nh – hay thố HV, giọng BK là tù viết bằng bộ nhân cho thấy sự quan trọng của thỏ đối với văn hoá TH. Hầu như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Măo : nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ, xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/báo…. Nhờ sự khác biệt này mà ta bắt đầu thấy mối dây liên hệ của tiếng Việt với 12 con giáp. Mèo hiện diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn. C̣n chi Ngọ liên hệ đến ngựa hầu như không cần giải thích nhiều, so với mă HV (mă BK, giọng BK hiện nay không c̣n âm ng- nữa mà đă bị môi hoá thành w- và m-). Các dạng Măo/Mẹo/mèo và Ngọ/ngựa dễ cho ta nhận ra sự liên hệ giữa tên 12 con giáp với tiếng Việt hiện nay. Thời tiền Hán, tiếng Việt ta không có nhiều thanh điệu (tone) như bây giờ, nên sự khác biệt về thanh điệu không có ǵ lạ. Như trong khẩu ngữ ta ta có cách dùng “chờ một tư” cũng như “chờ một chút”, “đưa chút tiền” cũng như “đưa tư tiền”  … vào thời tiền Hán, các câu trên đọc như giọng Huế hay người Ḥn bây giờ (ít thanh điệu hơn so với giọng Hà Nội) th́ ta thấy ngay chút hay *chụt/chuột chính là các dạng của tư vậy. Biến âm t-ch (phụ âm đầu) của tư/tử HV -chuột c̣n thấy qua các liên hệ như ty/tư HV là chủ, tỷ-chia, tứ-cho, từ-chữ, tự-chùa, tỷ-chị, tựu-chầu (tụ lại), tốt-chết, từ-chợ, thị-chợ, thố-chua, thù-chuốc, thục-chuộc, thúc-chú….Thành ra, ta có sơ khởi là ba chi Măo/Mẹo, Ngọ và Tư có liên hệ với mèo, ngựa và chuột trong tiếng Việt hiện đại. Các phần sau sẽ phân tách chi tiết hơn về sự tương quan giữa tên các chi và các tên thú vật trong tiếng Việt.
2.3 Nếu quả thật tên 12 con giáp TH bắt nguồn từ tiếng Việt (Cổ), th́ kết quả này c̣n phù hợp với các kết quả trước đây như triết gia Kim Định đă cố gắng chứng minh văn hoá TH xuất phát từ văn hoá Việt (SàiG̣n vào thập niên 1970, như cuốn “Việt Lư Tố Nguyên”), tác giả Nguyễn Hoài Nhân (bên Pháp vào thập niên 1980, như trong các bộ “VietNam en image” ghi nhận các bằng chứng về khảo cổ và ngôn ngữ để đi đến kết luận : người Việt Cổ là người cho, người TH là người nhận), tác giả Lê Mạnh Thát qua cuốn “Lịch Sử Âm Nhạc Việt Nam - từ thời Hùng Vương đến thời kỳ Lư Nam Đế” đưa ra các dữ kiện chứng tỏ rằng Việt Ca (Lưu Hướng ghi lại trong Thuyết Uyển) có nguồn gốc Việt Nam (VN), tác giả Nguyễn Thiếu Dũng cũng bắt đầu đặt lại vấn đề nguồn gốc Kinh Dịch (từ tộc Việt) trong những năm gần đây … Cho thấy chiều vay mượn là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Đường lúc văn hoá TH cực thịnh,. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc tên 12 con giáp, và rất ít dùng cấu trúc của chữ Hán, Hán Cổ cùng các biến âm trong cách lư giải.
Để thấy rơ hơn các liên hệ của tên thú vật và tàn tích trong tiếng Hán Cổ, chúng ta hăy xem một số từ chỉ con vật thông thường như cóc, voi … và cấu trúc của tiếng Hán cho thấy tàn tích của tiếng Việt mà đă từ từ mất đi trong ngôn ngữ TH hiện nay. Hi vọng từ đó khi tập trung nh́n vào các tương quan của tên 12 con giáp th́ các liên hệ sẽ được rơ ràng hơn, nhất là qua sự so sánh các ngôn ngữ láng giềng với tiếng TH, HV, tiếng Việt.
 
2.4 Muốn t́m hiểu ngọn ngành trên phương diện so sánh các ngôn ngữ, ngày nay ta không đến nỗi phải đi tới những nơi xa xôi (du học) nữa, nhất là về đề tài 12 con giáp. Các tài liệu thông tin, mạng Internet, sách vở được ấn hành nhiều hơn và cởi mở hơn. Thêm vào đó là chánh phủ địa phương có vẻ như càng ngày càng mở mang và thành thật hơn, không độc đoán và che dấu hay ‘bóp méo’ các dữ kiện khảo cổ, ngôn ngữ như xưa. Cách đây hơn 50 năm, Phan Khôi - một nhà nghiên cứu văn hoá VN rất nhiệt thành – đă phải lên tiếng “… người VN chúng ta về sau phải sang TH ở lâu mà nghiên cứu, may ra t́m được các dấu vết tương quan của dân tộc ta với dân tộc TH từ đời thượng cổ…” (trang 34, “Việt Ngữ nghiên cứu” Phan Khôi, bài viết năm 1954, in lại – NXB Đà Nẵng, 1997). Đương nhiên là các kết quả của so sánh ngôn ngữ phải phù hợp với những kết quả từ ngành khảo cổ, lịch sử và di truyền (DNA)… để tăng mức độ chính xác.
 
3. Tiếng Việt và tiếng Hán Cổ (hay tiếng Hán và tiếng Việt Cổ)
 
3.1 Cóc là loài vật vừa ở trên cạn vừa ở dưới nước (gọi là amphibian) hiện diện trong các ngôn ngữ Đông Nam Á như ku-óc, cóc (tiếng Mường), ka kọc (Nùng), róc (Lào : lụt róc, kăn kắk, khăn khắk : cóc), khàng khók (Thái), king kuok (Khme), a-rok (Chàm), kok, kokke, khog (Mundari, Birhor, Hor…ngữ hệ Munda), cơưk (Hmong) ..v..v..  Trong vốn từ TH hiên nay, c̣n một chữ rất hiếm là cúc HV viết bằng bộ trùng hợp với chữ cúc hài thanh (HT, cúc nghĩa là nắm, túm) - giọng BK bây giờ là jú, qú. Để chỉ con cóc, tiếng TH có các từ thiềm HV (chán, zhān BK) viết bằng bộ trùng (cũng có nghĩa là bóng đen trên mặt trăng, tiếng ghép HV thiềm thừ là con cóc); thừ HV (shú, chú, yú BK) viết bằng bộ trùng hợp với chữ dư HT; ma HV (má, ṃ BK viết bằng bộ trùng, c̣n là một loại ếch); Ba/pha/b́ HV (bŏ, pí BK viết bằng bộ trùng hợp với chữ b́ HT - từ này ít dùng với tần số dùng là 10 trên 365398752 cho thấy một cách phân biệt cóc và nhái qua lớp da sần)… Trái cóc có vỏ như da cóc … Theo người viết th́ cóc2 có thể là một từ tượng thanh (con cóc có tiếng kêu đặc biệt ‘cọc… cọc”) với âm yết hầu k-, và do đó một số ngôn ngữ khác không liên hệ ǵ đến tiếng Việt hay Nam Á như ngôn ngữ của Easter Island ở Nam Thái B́nh Dương cũng gọi cóc là kok, tiếng Inđônesia là kodok, katak, tiếng Kơho là kit trô …
 
3.2 Voi là một từ đáng chú ư : có nhiều cách viết chữ Nôm, như bộ khuyển hợp với chữ vi HV (hài thanh, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị/ĐNQATV), bộ khuyển hợp với chữ bôi (cái chén, HT cho thấy liên hệ b-v), bộ khuyển hợp vớI chữ bút … Các chữ voi này rất xa lạ với người TH, . Tiếng TH hiện nay có tượng HV, giọng BK bây giờ là xiàng, giọng QĐ jeung6 liên hệ đến giống tiếng Việt, viết bằng bộ nhân hợp với chữ tượng HT. Chữ tượng có cách viết cổ giống như h́nh con voi nhưng lại dựng đứng lên để theo chiều từ trên xuống dưới và để tiết kiệm diện tích viết chữ. Tượng c̣n dùng để chỉ bức tượng trong tiếng Việt so với tiếng TH bây giờ phải dùng các từ ghép như diāoxiàng BK (điêu tượng, tượng được khắc), sùxiàng (tố tượng, tượng được nặn hay đắp thành). Ông hay bà quản tượng là người coi (kiểm soát) voi hay là mahout, là tiếng Ấn Độ/Hindi mahaut gốc tiếng Phạn là mahamatrah. Con tượng c̣n là con voi trong bàn cờ tướng. Một điểm đáng chú ư là chỉ có voi là loài vật khác trong các loại lợn được viết bằng bộ thỉ (con lợn) thứ 152. Dự là từ HV đă từng có nghĩa là con voi - chữ này viết bằng bộ thỉ, thật ra là chữ dư hợp với chữ tượng - hiện thời có các nghĩa như vui vẻ (nghĩa bây giờ hơi khác hơn và thiên về an nhàn), thoải mái, du ngoạn (hàm ư vui vẻ), do dự, dự bị, một trong chín châu (Cửu Châu) của TH thời xưa (bao gồm tỉnh Hà nam, do đó Dự cũng là tên cổ của Hà Nam3), gạt gẫm … và rất ít tự điển ghi nhận nghĩa cổ của dự là voi4. Theo người viết, vui là âm cổ cũng như một dạng khác là voi. Liên hệ u-o (vui-voi) c̣n thấy trong các cách dùng tương đương như tùng-ṭng (thông), chùm-cḥm, vũ-vơ, trụi-trọi, dung-dong, phù-pḥ, hụi-hội, tui-tôi, thúi-thối … do đó ta có cơ sở giải thích liên hệ dự-vui-voi. Voi từ chữ dự (có chữ tượng) hợp lư hơn là từ chữ vi (bộ trảo) theo Vương Lực (xem phụ chú 4). Các dữ kiện hỗ trợ cho liên hệ dự-vui c̣n thấy qua các chữ HV như du (yú BK, viết bằng bộ sước) có nghĩa là đi chơi, vui vẻ; du HV (yú BK viết bằng bộ tâm) có nghĩa là yên vui … Các cách viết khác nhau để ghi lại âm ‘vui’ cho thấy lư luận dự-vui thêm phần chính xác (nhớ rằng chữ viết có sau tiếng nói).
 
3.3 Vụ HV viết bằng bộ điểu, giọng BK bây giờ là wù, mù, giọng QĐ mou6, muk6, Hẹ mu6, vu6 … nghĩa là một loài vịt. Chữ này không thông dụng trong vốn từ TH hiện đại với tần số dùng là 105 trên 368707021 so với các chữ khác như áp HV (yā BK), nga HV (é BK, ngo4 QĐ – ngan, ngỗng là các dạng cổ), nhạn HV (yàn BK, ngaan6 QĐ) … Theo Thuyết Văn (TV), chữ ngan đồng nghĩa với nhạn. Biến âm u-i của vụ-vịt không thường gặp nhưng c̣n tàn tích trong các cách dùng bút-viết, thụ-chịu, nhu-diệu, đinh-chuồn … Để ư phụ âm tắt –t ở sau nguyên âm thường mất đi trong giọng BK (phương Bắc) nhưng vẫn c̣n duy tŕ trong tiếng Việt, giọng QĐ, Hẹ …
 
3.4 Đinh viết bằng bộ trùng với chữ đinh HT, giọng BK bây giờ là dīng, chēng, chéng, ding1, cing1 QĐ, Hẹ den1 …có nghĩa là con chuồn chuồn. Chữ này rất ít dùng với tần số dùng là 14 trên 430747376. So với các chữ khác thường gặp trong vốn từ TH hiện nay như tinh HV (dīng, tīng BK), đ́nh HV hay tinh đ́nh, linh HV (líng BK viết bằng bộ trùng hợp với chữ linh/lệnh HT, để ư linh HV viết bằng bộ kim hợp với chữ linh/lệnh là chuông)… Nếu ta để ư biến âm đ-tl/tr-ch (xem bài viết riêng về biến âm này cùng tác giả) như độn-trốn-chuồn, đồn/đốn-truân-chiên, đồn-trôn, điền-trần, đục-trọc, đoàn-tṛn, động-trọng-chuộng, đồng-tṛng (con ngươi), đản-trần …v..v.. th́ có thể giải thích được liên hệ đinh-*chuôn (biến âm i-u nói ở phần 3.3), hay dạng chuồn (thanh huyền có thể do ảnh hưởng của phụ âm mũi  –n). Tiếng Mường cũng có dạng chuồn chuồn, tiếng Zhuang là chi-chuồn.
 
Như vậy th́ tiếng Việt vẫn c̣n tàn tích trong tiếng TH, tuy nhiên các cách dùng từ ‘phương Nam’ từ từ mất dần đi5, có thể là do các tiếng phương Bắc thay vào (giai cấp thống trị), hoặc không hợp với hệ thống âm điệu của Hán tộc hay sự cố t́nh bôi xoá ?
Tóm tắt bài này là trong tiếng TH có những từ Việt (Cổ) nhưng rất ít dùng, tuy nhiên trường hợp của tên 12 con giáp rất đặc biệt : được dùng trong việc ghi lại thời gian, không gian, bói toán, cúng kiến … rất phổ thông trong văn hoá và tín ngưỡng dân gian, chúng gắn liền với lịch sử tư tưởng của TH và VN, đóng một vai tṛ quan trọng trong văn hoá dân tộc. Do đó, chúng là những từ hoá thạch (fossilised) gắn bó với câu ca dao
 
                        ‘Trăm năm bia đá th́ ṃn
                        Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ’
 
4. Phụ chú
 
(1) Bảng so sánh trên cho thấy liên hệ giữa tiếng Pháp và Anh như sạc tiếng Pháp và tiếng Anh giống y như nhau, gốc tiếng Pháp Cổ (Old French) là chargier (chất đồ lên, tải), liên hệ đến tiếng La Tinh carrus (chiếc xe) do đó ta có các dạng tiếng Anh như car/xe, carry/chở, chariot/xe … và nếu truy tầm thêm nguồn gốc các chữ trên th́ sẽ thấy nhiều tương quan của nhóm (ḍng, ngữ hệ) La Mă, họ Ấn Âu (Indo-European) phản ánh qua lịch sử và quá tŕnh phát triển văn hoá của Hi Lạp, Ư, Pháp v..v.. Điều này ra ngoài mục đích của bảng so sánh cốt là cho thấy các tiếng mượn từ tiếng Pháp mà thôi.
 
(2) Tác giả Lê Gia trong “Tiếng Nói Nôm Na” (NXB Văn Nghệ Thành Phố HCM, 1999) th́ giải thích cóc là từ hốc, cốc mà ra “loài vật dơ dáy, bẩn thỉu, tối ngày ngồi trong hang trong hốc” (trang 1451).  
 
(3) Tỉnh Hà Nam vẫn c̣n một số hoạt động như cỡi voi cho du khách.
 
(4) Theo tác giả Nguyễn Văn Tu trong “Từ và vốn từ - tiếng Việt hiện đại” (NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội 1976) th́ voi có nguồn gốc là chữ vi “…theo sự nghiên cứu của ngành Cổ Văn Tự, vi là chữ tượng. Theo tiếng Việt thiên đọc là vi c̣n tượng đọc là voi…” (trang 266) - trích dẫn từ kết luận của nhà ngữ học TH Vương Lực trong các cuốn “Hán Việt Ngữ nghiên cứu” và “Hán ngữ sử luận văn tập” (khoảng 1958). Sau gần 3 thập niên, tác giả Lê Đ́nh Khẩn cũng lặp lại điều này trong cuốn “Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt” (NXB Đại Học Quốc Gia Thành Phố HCM, 2002), tuy nhiên tác giả có bàn thêm là thời thượng cổ “…không chắc là âm đọc theo chữ nào trong hai chữ đồng nghĩa ấy …” (trang 59). Khi tra cách viết và khắc của chữ vi (Cổ Văn) ta thấy h́nh hai con khỉ trên h́nh con voi tuy h́nh vẽ không rơ ràng lắm, theo ‘Tại Tuyến Hán Điển’ trên mạng Internet, và ‘Chinese Characters’ của L. Wieger - cả hai tài liệu này đều ghi vi là ‘khỉ cái’. Để ư cách đọc vi HV là wèi BK, Hẹ wui3, wuị, wi3, wi5 … C̣n theo Từ Nguyên th́ nghĩa cổ nhất của dự là “tượng chi đại giả - kiến Thuyết Văn” . Voi giữ một địa vị đặc biệt trong lịch sử VN : nào là chuyện bà Triệu cỡi voi chống ngoại xâm, nào là những khi được triều cống cho TH, nào là các h́nh phạt cho voi xé xác, voi giày …  và hiện diện trong ca dao thành ngữ như “khoẻ như voi”, “muỗi đốt chân voi”, “chỉ  buộc chân voi”, “được voi đ̣i tiên”, “trăm voi không được bát nước xáo”, ”có con gái lớn trong nhà như cỡi đầu voi dữ”, “trời sinh voi trời sinh cỏ”…v…v..  Hiếm lắm ta mới thấy vài thành ngữ có voi trong văn hoá TH như “tượng trợ ngọc bôi” (đũa bằng ngà voi và chén bằng ngọc, chỉ cuộc sống giàu sang) hay “tượng xỉ phần thân” (voi chết chỉ v́ muốn lấy ngà, của cải đem đến nguy hiểm).
                       
(5) Khuynh hướng mất dần các vết tích của ngôn ngữ phương Nam (thời Bách Việt về sau) đồng thời với khuynh hướng bành trướng của lănh thổ TH và các đợt di dân cùng pha trộn với dân bản địa trên lưu vực sông Hồng. Các vết tích của tiếng Việt như voi, vịt, cóc, chuồn chuồn …trong tiếng TH chứng tỏ phần nào nhận định tổng quát này.

Phần II

1. Tổng quát
 
Từ phần 1, với một cách phân tích đơn giản ta thấy là 12 con giáp liên hệ đến cách gọi tên con vật trong tiếng Việt qua 3 chi Măo/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa và Tư/Tử/chuột. Các phần đầu 1, 2 có mục đích là giới thiệu tổng quát về tên 12 con giáp và đặt nền tảng cho các phần sau chi tiết hơn (phần 3 về sau bàn về tên mỗi con giáp). Người viết cố tránh dùng các thuật ngữ để cho dễ đọc và dễ cảm nhận hơn. Tiếng chuông cảnh tỉnh mọi người về nguồn gốc phi-Trung-Hoa của tên  con giáp thật ra đă được giống lên từ những công tŕnh khảo cứu ngôn ngữ học của vùng Đông Nam Á từ thập niên 1930, bởi các tác giả nước ngoài, đáng lẽ phải từ các nghiên cứu khảo cổ hay lịch sử và văn hoá dân gian của dân địa phương mới ‘hợp lư’ và ‘hợp t́nh’. Nhưng có thể v́ những cuộc chiến tranh tàn khốc trong khu vực này trong cả thế kỷ qua nên không cho ra bao nhiêu kết quả chính xác. Thêm vào đó là lịch sử rất lâu đời của vùng Đông Nam Á, cùng với nhiều đợt giao lưu văn hoá qua đường biển cũng như trong đất liền, làm cho quá tŕnh nghiên cứu không được mấy dễ dàng. Điều đầu tiên là lập bảng so sánh tên 12 con giáp của các ngôn ngữ trong vùng như sau. Để ư một nước có thể dùng nhiều bảng con giáp1 (VN có ít nhất là 3 bảng) và sự thay đổi nghĩa của một số chi như rồng trở nên con naga (ảnh hưởng của Ấn Giáo, một loài vật huyền thoại nửa voi nửa rắn, có khi nửa người nửa rắn, nửa người nửa tiên…), gà trở thành con chim (theo Tây Tạng, gà thuộc vào loài chim – gà là con vật duy nhất có cánh trong 12 con thú), sự phân biệt giống đực hay cái (gà trống, dê đực …) thay v́ tổng quát, có cả sâu bọ2, heo thành voi theo một cách ghi 12 con giáp của Thái Lan, bị ảnh hưởng tiếng Phạn Nam/Pali. Pali hay tiếng Phạn Nam (phía Nam) có gốc là tiếng Phạn Cổ (classical Sanscrit) nhưng đơn giản hơn, các kinh điển của Phật Giáo đầu tiên được chép bằng tiếng Pali và truyền từ Sri Lanka đến Miến Điện (Myanmar), Thái Lan, Kampuchia, Việt Nam (phần nhỏ) … thuộc phái Tiểu Thừa (Theravada) so với phái Đại Thừa (Mahayana) truyền từ TH qua. Các ngôn ngữ dân tộc thiểu số được dùng để so sánh hầu t́m ra các dây liên hệ như tiếng Saek đang có hiểm hoạ diệt vong, thuộc ḍng Thái-Kadai và chỉ dùng trong vài làng bên Lào và Thái Lan. Tiếng Yay cũng giống như tiếng Dioi cùng thuộc ḍng Thái. Tiếng Ahom đă từng hiện diện ở Assam, bây giờ không c̣n nữa và chỉ dùng trong các hoạt động tôn giáo địa phương. Dân tộc Ahom có gốc từ tỉnh Vân Nam, di dân xuống miền Đông Nam Á Châu và Bắc Miến Điện.
 
2. Bảng so sánh các tên 12 con giáp Á Châu
 
Việt (bảng 1)
Việt (bảng 2)
Việt (bảng 3)
Hán (Bắc Kinh)
Quảng Đông
Tư/Tí/Tử
Thử (D)
Chuột
zi2/ci2
Sửu
Ngưu/Ngâu
Trâu
Chŏu
Cau2
Dần
Hổ/Hùm
Cọp
Yín
Yan4
Măo/Mẹo
Thố/Thỏ
Mèo
Măo
Mau3
Th́n/Thần
Long
Rồng
Chén
San4
Tỵ/Tị
Rắn
zi6
Ngọ
Ngựa
ng2/ng5
Mùi/Vị
Dương
Wèi
Mei6
Thân
Khôi (khọn)
Khỉ
Shēn
San1
Dậu
Yŏu
Jau5
Tuất
Khuyển (Cẩu)
Chó (Cầy)
Seot1
HợI
Trư
Heo (Lợn)
Hài
Hoi6
 
Nhật (on)
Nhật (kun)
Đại Hàn
Pali/Thái
Khme
Ne
Shi
Ja
Musika
Jut
Ushi
Chu
Chug
Pasu
Chiu
Tora
In
In
Vyaggha/saddula
Kha1
U
Bo
Myo
Sasa
Thoh
Tatsu
Shin
Sin
Mahoraga
Rong
Mi
Shi
Sa
Sappa
Msang
Uma
Go
O
Turanga
Mami
Hitsuji
Bi
Mi
Aja
Mame
Saru
Shin
Sin
Makkata
Vok
Tori = con chim
Yu
Yu
Kukkuta
Raka
Inu
Jutsu
Sul
Kukkura
Ca
I
Gai
Hal
Kunjara=con voi
Kur
Tiếng Saek cổ
Tiếng Saek mới
Thái/Xiêm (A)
Lào
Đài-Loan 
Tii6
Suat5
Chuat3
Tiao
Chi2
Thriw3
Sa6luu1
Chaluu5
Pao
Thiu2
Rin4
Khaan1
Khaan5
Gni
In5
Meew3
Tho4
Tho2
Mao
mo (tiếng Ngô)
Sin4
Ma6long4
Maroong1
Si
Sin5
Tii5
Ma6seng1
Maseng5
Sao
Chi7
Ngo5
Mamia4
Mamia1
Sa-nga
Ngou2
Muy4
Mame4
Mame2
Moth
Bi7
Thrin4
Vok5
Wook3
Sanh
Sin1
Raw3
La6kaa1
Rakaa1
Hao
Yu
Tut4
Cho1
Cho1
Zet
Sut1
Hơỵ
 
Kun6
Kun1
Khao
Hai7
Mường (A)
Tiếng Dioi
Tây Tạng
Ahom (B)
Tên tháng (C)
Chaeu3
Dschiwa
Cheu
Shigar (Sygar)
Khéu (tlu/klu)
Piaou3
Lan
Plau
Kuman (Imén)
Rân
Ngien2
Tag
Ngi
Ugur
Mêo
Maou3
Yo
Mao
Taushan
Sin (hông/ṛn)
Chi2
Drug
Shi
Samar
Tê (sin/san)
Seu3
Dru
Sheu
Dilan
Ngo
Sa3
Ta
Shi-nga
Tuki (Tykha)
Mùi (bê)
Fat1
Lug
Mut
Téké
Thân (vok)
San4
Dre
Shan
Bichin, Michin
Râu (ka)
Thou3
Dscha (con chim)
Rao
Taguk
Tât (cho)
Seưt1
Kyi
Mit
It
Hơi (kui/kun/kul)
Kaeu3
Pag
Keu
Shushma
 
 
(A)   thoạt xem tên 12 con giáp bằng tiếng Thái (tên gọi chính thức/formal names) ta thấy rất gần với nghĩa chúng qua tiếng Việt ! Thí dụ như tư/tí/tử là chuat3 hay chuat3 (3 nghĩa là falling tone, thanh điệu thứ 3 đi xuống gần như dấu huyền tiếng Việt, trong phần này không ghi thanh điệu cho đơn giản) - dạng chuat3 rất gần với chuột tiếng Việt – tuy nhiên, chuat lại không có nghĩa con chuột trong tiếng Thái (mà là nuu). Điều này cho thấy rằng tiếng Thái đă mượn từ các tên tiếng Việt, cũng như các dạng khan (kễnh, cọp – năm cọp chính thức gọi là bpee khan nhưng thông thường hơn là bpe seuua),  roong1 (rồng – năm rồng chính thức gọi là bpee ma roong1 hay thông thường hơn là bpee nguu yai, nguu là con rắn), rakaa1 (gà – năm gà chính thức gọi là bpe rakaa1 nhưng thông thường hơn là bpee gai) …v..v.. Chính các tên gọi của Thái là chiếc cầu nối giữa tiếng Việt, Cổ Việt, Mường, Hán Việt : cũng như  Cha luu5 là một dạng khác của k-lu (biến âm k-ch/gi- như Bắc Kinh/Beijing, kông/klông/giang đă ghi lại nhiều lần trong các bài viết trước – xem bài “Nguồn gốc nhóm từ sông Cửu Long” cùng tác giả), klu hay tlu (Mường) chính là tru/trâu tiếng Việt, kbây, krobây (Khme)….  Trâu, ḅ không có dạng này trong tiếng Thái hiện tại, năm sửu chính thức gọi là bpe cha luu5 so với cách gọi b́nh dân là bpee wuaa, wuaa hay khoh chỉ con trâu, ḅ … C̣n biến âm kl-s c̣n thấy khi so sánh tiếng Mường và Việt : klu-sửu (trâu), klong-sông, khláng-sáng3 (Mường Poọng, khlau/krau-sau (Mường Hung), khlt/klăt-sắt, kru-sâu (Mường Uư Lô) …. Có khi âm –l- mất hẳn để cho các dạng khang-sang, khao-sao4 …Trở lại với các cách gọi tên 12 con giáp trong cùng một ngôn ngữ, cách gọi chính thức được người viết xếp vào loại ‘bác học’ (BH) v́ cần phải học mới biết rơ ràng so với cách gọi ‘b́nh dân’ (BD) qua các tên con thú. Sự phân hoá thành ra ít nhất hai loại văn chương BH và BD không chỉ xẩy ra qua khung cửa của tên 12 con giáp, nhưng c̣n làm cho vốn từ Hán Việt và Việt thêm phong phú.
 
(B)   theo bài “A note on the origin of the Chinese duodenary cycle” của Jerry Norman đăng trong cuốn “Linguistics of the Sino-Tibetan area – the state of the art” 1985, bài này ghi lại và bàn thêm về các dữ kiện từ bài “L’origine du cycle des douzes animaux au Cambodge” viết từ năm 1935 bởi George Coedès.
 
(C)   Theo tài liệu đăng trên mạng Internet của Wikipedia, chủ đề Chinese Astrology – tên các tháng của dân tộc Hung (Hunnish) hay dân tộc Thổ-Bungari (Turkic Bulgarian) có nhiều trùng hợp với tên 12 con giáp – có lẽ đây là các dân tộc ở xa TH nhất trên phương diện địa lư mà vẫn dùng hệ thống này (so với Nhật, Lào, Thái Lan, Viêt Nam…) và có thể qua con đường buôn bán tơ lụa (the Silk Road). Tiếng Hung hay Thổ-Bungari không liên hệ ǵ đến tiếng TH hay ngữ hệ Hán-Tạng. Các tên tháng theo thứ tự có nghĩa là con chuột, trâu, cọp … đến con heo rừng cũng như thứ tự và tên 12 con giáp TH.
 
(D) Người viết chưa từng thấy bảng tiếng Việt này – cho tới khi đọc cuốn “Encyclopaedia of Asian Civilisation” – NXB Louis Frédéric (1984), Éditions Jean-Michel Place. Chú ư các từ thử HV dùng để gọi chuột, khôi để gọi Thân…
 
(E)   Theo tác giả William G. Boltz trong bài viết “The Old Chinese Terrestrial rames in Saek” (in trong cuốn “Studies in the Historical Phonology of Asian Languages” chủ biên William G. Boltz và Michael C. Shapiro, NXB John Benjamin, 1991) th́ các ngôn ngữ Lu và Pu-Yi (đều thuộc ḍng Thái) có các dữ kiện sau (tóm tắt lại với các số đứng sau chỉ thanh điệu)
 
Tên     Tư        Sửu      Dần      Măo     Th́n     Tỵ        Ngọ                 Mùi      Thân
 
Lu        tsai3     pau3    ji2        mau3    si1        sai3      sa-nga4            met6    san1
Pu-Yi   tsai3… pau3    jin2…. mau4    tsi2       si3        sa4/tsa3…       vat8     san1
 
 
            Tên     Dậu                 Tuất                 Hợi
 
            Lu        hrau1               set5                 kai4
            Pu-Yi   ju4/zu4…         sat7/sut7…      kai4/ka4..
 
 
3. Các giả thuyết dựa trên ngôn ngữ học
 
Nguồn gốc tên 12 con giáp đă được nhiều học giả ngoại quốc nghiên cứu : George Coèdes (1935) sau khi so sánh tên 12 con giáp5 của Xiêm và Kampuchia đă đi đến kết luận là chúng có nguồn gốc tiếng Mường Cổ. Ộng đă viết nhiều về các ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ trong vùng Đông Nam Á, tuy nhiên không đưa ra một liên hệ ǵ về tên 12 con giáp với Ấn Độ. Học giả TH Li Fang-Kuei (1945) chuyên khảo về tiếng Thái6 đă phân tách thập can và thập nhị chi qua các ngôn ngữ Thái và đưa ra nhận định rằng tiếng Thái vẫn c̣n duy tŕ một số phụ âm Hán Cổ như pl-, zng-, sm- tuy không nhất quyết xác định được nguồn gốc tên 12 con giáp từ đâu ra. Sau đó là các công tŕnh của học giả Paul K. Benedict, vào năm 1967 ông đề nghị thập nhị chi có nguồn gốc Nam-Thái (Austro-Thai)7 trong bài viết về Văn Hoá và Ngôn Ngữ Nam-Á, và dựa trên các liên hệ của âm ngựa (Ngọ), chó (Tuất) và heo (Hợi). Năm 1975, ông viết cuốn “Austro-Thai Language and Culture” khai triển các ư từ những năm trước. Ông đưa ra các dữ kiện của các ngôn ngữ địa phương để đi đến kết luận rằng tiếng TH đă mượn một số tiếng Nam-Thái như trứng, gà, ngựa, yên (ngựa), cỡi ngựa, voi, ngà, lợn (heo), thỏ, trâu ḅ … nuôi lấy thịt, ong, mật, gạo, mía, muối …v…v… và điều đáng chú ư và oái ăm là sau đó, các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á đă phải mượn lại các từ ngữ mà ḿnh cho TH mượn trước kia ! Thí dụ như các từ trà, giấy … Cũng theo Benedict th́ có những tính chất đặc thù bắt nguồn từ văn hoá Nam-Thái như phép tính 12 con giáp mà nhiều người tưởng là của TH. Ông ghi nhận rằng chữ ngựa trong tiếng Lê (Li, dân bản xứ đảo Hải Nam) là nga/ka và là một bằng chứng là mă và ngựa có liên hệ, sau khi so sánh và đề nghị dạng âm cổ phục hồi của ngựa trong tiếng Inđônêsia và Mă lai là *t’anga, tác giả đề nghị âm cổ Nam-Thái là *sanga. Cuối cùng kết luận bằng cách đưa ra một giả thuyết rằng có thể một ngôn ngữ cổ Nam-Thái đă từng hiện diện trong vùng Đông Nam Á, mà ông gọi là AT-x và đă cho TH mượn nhiều từ căn bản. Tác giả Jerry Norman (1985) cũng dựa vào các dữ kiện từ tiếng Thái, Hán Việt, Việt và TH, Mường để chứng minh rằng tên 12 con giáp có nguồn gốc từ phương Nam (Austroasiatic, Nam Á). Ngoài 3 từ Ngọ, Tuất, Hợi, Norman8 c̣n liên hệ 4 từ Sửu, Th́n, Mùi, Dậu với các tiếng phương Nam – bài viết trên thật ra là từ một bài viết cùng với tác giả Mei Tsu-Lin (1976) về các từ TH có nguồn gốc phương Nam. Các tác giả đă đi đến một kết luận là chủ nhân tên 12 con giáp có thể đă ở khu vực bờ biển Đông Nam TH, và có thể là các nước Ngô hay Việt thời xưa. Gần đây hơn, trong bài viết về 12 con giáp của William G. Boltz9 (1991), ông ghi lại một số bảng so sánh gồm có các tiếng Saek, trích từ tài liệu của giáo sư William Gedney (1982). Sau khi phân tích các dữ kiện, tác giả kết luận rằng bảng 12 con giáp của tiếng Saek Cổ (mà Gedney chép lại) là vay mượn từ TH, có lẽ khoảng 200 hay 600 năm sau Công Nguyên (SCN), và 12 con giáp VN có lẽ mượn sau đó nữa (thời kỳ Late Middle Chinese). Từ năm 2000, người viết10 đă cho ra các bài (kết hợp từ nhiều năm trước) bàn về tên 12 con giáp để cho thấy nguồn gốc VN. Các tác giả trước đây không ai đề nghị nguồn gốc VN của 12 con giáp, có lẽ gần nhất là tiếng Mường Cổ mà thôi. Thêm vào đó là những học giả ‘có uy tín’ trong nước như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hăn … cũng như các học giả TH đều viết nhiều về văn hoá VN nhưng đều hàm ư nguồn gốc TH của 12 con giáp, tuy không ai dựa trên dữ kiện ngôn ngữ học cả và đa số dựa trên tài liệu lịch sử và văn chương cổ điển. Ngôn Ngữ Học nói chung, và Âm Ngữ Học Lịch Sử (Historical Phonology) nói riêng là những ngành học khá mới mẻ ở VN và TH. Như đă viết ở phần 1, ta đă thiết lập liên hệ Măo/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa và Tư/Tử/chuột. Dựa vào cách cấu tạo chữ Hán, cũng như kết quả mà các tác giả phần trên đă dầy công nghiên cứu, ta có thể khám phá thêm một số chi tiết mà các vị trên chưa biết tới, có lẽ v́ không biết đến tiếng Việt Cổ chăng ? Thí dụ như chi thứ 9 là Thân có liên hệ ǵ đến con khỉ VN ? Nếu ta xem cách viết chữ Thân viết bằng bộ điền với nét giữa dài hơn, giọng BK bây giờ là shēn (viết theo pinyin), được phục hồi âm cổ với dạng *khrin (Li Fang-Kuei 1971, William Boltz 1991), hay dạng *hljin (William Baxter11 1992 - để ư phụ âm r và l dễ hoán chuyển cho nhau). Nếu xem cách viết chữ khôn (một trong bát quái, một căn bản của Kinh Dịch có từ thời Thượng Cổ) th́ ta thấy bộ thổ hợp với chữ Thân hài thanh (HT). Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và khôn, tuy nhiên tiếng Việt Cổ có chữ khọn là con khỉ12 (theo “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”/ ĐNQATV, Huỳnh Tịnh Của, 1895 - lặp lại trong cuốn “Từ Điển Từ Việt Cổ”, Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện 2001). Thành ra Thân chính là khỉ, tiếng Việt Cổ, dầu rằng biến âm th-kh rất hiếm13 v́ âm thanh thay đổi qua hơn hai ngàn năm từ một gốc chung, sau đó lại gặp nhau trong tiếng Việt - so với liên hệ rất thường gặp từ tiếng TH qua tiếng Việt như sh-th của shuĭ BK/thuỷ HV (nước), shén/thần, shèn/thận (- trọng), shěn/thẩm (biết), shàn/thiện, shí/thập, sh́/thích, shù/thụ (cây)…phản ánh quá tŕnh tiếng TH nhập vào tiếng Việt thời Đường Tống một cách có hệ thống hơn. Tàn tích của biến âm th-kh c̣n thấy trong tiếng Việt như khoá/toả, khâu/thêu, khắp/tạp … C̣n Dần có dính líu ǵ đến cọp ? Dần HV viết bằng bộ miên, giọng BK bây giờ là yín, jan4 QĐ, Hẹ là jin2, rin2  – xem cách viết cổ th́ thấy h́nh mái nhà (bộ miên) với một người ở trong đang dâng lễ vật bằng hai tay đưa lên (hàm ư cung kính). Thật ra nghĩa thông dụng của dần trong tiếng TH hiện đại là kính trọng. Các âm tương ứng với yín BK bây giờ trong tiếng Việt thường là d- như yín (dâm), yíng (doanh), yóu (du), ỵu (dụ) … tuy nhiên có những trường hợp yín BK tương ứng với âm ngạc sau (postpalatal) như yín/ngân (bạc), yín/ngâm (vịnh) … và yínyín là tiếng chó sủa (so với tiếng Việt ‘gấu gấu’) ..và đôi lúc mất hẳng âm đầu đi như ýn/ẩn, yīn/âm (lặng im) : âm viết bằng bộ khẩu hợp với chữ âm (thanh) HT hay bộ nạch (bệnh) cho thấy tiếng Việt c̣n duy tŕ dạng cổ hơn, đó là câm với âm ngạc sau k- , so với một cách đọc QĐ là ngam1- các dạng tương đương khác đáng chú ư là khản, khàn, khan. Các biến âm trên xẩy ra trong một thời gian rất dài, tuy nhiên khác với âm d- HV nhập vào tiếng Việt một cách có hệ thống hơn. Với cùng một nghĩa (dần,kính,cẩn), và dựa trên tàn tích của âm ngạc sau trong tiếng Việt (chứ không phải tiếng HV) cho ta đến một dạng âm cổ phục hồi của Dần là *kan, dạng này phù hợp với các dạng14 bây giờ của Dần trong tiếng saek, Thái, Khme …  Nhưng liên hệ trong tiếng Việt và HV c̣n có a-e hay a-ê như hạ-hè, trà-che, hoạ-vẹ … và phá-bể, giá-kệ/kê, gà-kê … Thành ra *kan có thể là *kên hay *kênh. Dạng phục hồi *kênh tương ứng với tiếng Việt Cổ kễnh chính là con cọp, như vậy ta có liên hệ giữa tên con giáp Dần và tên con cọp. Câu ca dao sau nói lên phần nào vai tṛ con mèo (Măo/Mẹo) và kễnh trong văn hoá dân gian
 
                        “Mèo tha miếng thịt xôn xao
                        Kễnh tha con lợn th́ nào thấy chi”
 
Ư tứ và cách dùng các con vật như mèo và kễnh như trong ca dao của VN trên thật là xa lạ với văn hoá TH. Qua các phân tách sơ khởi trên - và chỉ qua 6 liên hệ Măo/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa, Tư/Tử/chuột, Thân/khọn (khỉ), Dần/kễnh (cọp), Sửu/tlu (trâu) – ta thấy tên các con giáp càng gần gũi với tộc Việt hơn. Các lư giải phần sau sẽ cho thấy rơ hơn nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp sau khi đă tháo gỡ các lớp bụi thời gian cũng như cạo đi các lớp son phấn vô t́nh hay cố ư mà người xưa để lại trong ngôn ngữ.
 
4. Phụ chú
 
(1) Ta thường nghe nói tuổi chuột, tuổi con chuột hay tuổi Tư … các cách nói này đều cùng nghĩa là năm sinh vào năm con chuột (năm Tư). Thành ra có thể có nhiều bảng cùng chỉ 12 con giáp trong ngôn ngữ, từ tiếng HV đến tiếng ‘thuần Việt’ cho thấy sự phân cực thành văn chương BH so với BD…v…v… Lê Quư Đôn (1726-1784) trong “Vân Đài Loại Ngữ” (người viết có hai bản dịch : Trần Văn Giáp, NXB Văn Hoá Thông Tin 2006 và bản của các tác giả Phạm Vũ, Lê Hiền do Nhà Sách Tự Lực in) cũng không đề cập đến mèo mà ghi Tư là thỏ, điều này cho thấy hoàn cảnh phức tạp khi dùng tài liệu TH, nhiều khi không hợp với cách dùng thông thường của đa số quần chúng (văn chương BD). Trong cuốn tự điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes (1651) ra đời trước “Vân Đài Loại Ngữ” khoảng hai trăm năm, tác giả đă ghi nhận giờ mẹo là giờ mèo (con mèo). Nh́n bảng so sánh trên qua tiếng Saek Cổ và hiện đại, ta thấy Măo/Mẹo hiện diện trong ngôn ngữ cổ hơn, như thỏ (nhập từ tiếng TH) bắt đầu có mặt trong tiếng Xiêm . Trên phương diện tín ngưỡng dân gian, có người tin rằng có những tuổi hợp và khắc nhau (tạo ra bao nhiêu t́nh duyên ngang trái) kết hợp thành nhiều trường phái ‘bói toán’, chỉ làm tên 12 con giáp ở sau ‘hậu trường’ trở nên ‘bất tử’ mà thôi.
 
(2) Theo tác giả Thường Tuấn (Đại Học Thượng Hải) trong cuốn “Văn Hoá về 12 con giáp”, NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM, 2005 th́ 12 con giáp đă có trước đời Hán, nhưng từ các dân tộc thiểu số. Như cuốn “Nhật Thư” của Tần Trúc Giản được khai quật vào năm 1975 ở Hố Bắc cho thấy 12 con giáp đă lưu truyền từ thời kỳ Tiên Tần và dùng để bói toán. 12 con giáp gồm có chuột, trâu, cọp, thỏ (khuyết), sâu bọ, hươu …
 
(3) Theo “An Nam Dịch Ngữ” Vương Lộc giới thiệu và chú giải, NXB Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học - Hà Nội – Đà Nẵng 1995.
 
(4) Theo “Từ Điển Mường-Việt” Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi chỉ, Hoàng Văn Hoành (2002) – NXB Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội.
 
(5) “L’Origine du cycle des douzes animaux au Cambodge” tác giả George Coèdes viết trong Toung pao XXXI (1935), trang 315-329. Ông có nhiều khảo cứu về ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ trên vùng Đông nam Á như qua bài “Inventaires des Inscriptions du Champa” từ  nă m 1908 (BEFEO VIII) và cuốn “The Making of South East Asia” (tựa đề nguyên thuỷ là “Les Peuples de la Péninsule Indochinoise” Paris 1962) dịch ra tiếng Anh bởi giáo sư H. M. Right, University of California Press 1966.
 
(6) “Some Old Chinese loan words in the Tai languages” bài viết của giáo sư Li Fang-Kuei trong bộ ‘Harvard Journal of Asiatic Studies’ 8:333-342 (1945)
 
(7) “Austro-Thai Language and Culture” (1975) tác giả Paul K. Benedict bổ túc bài viết từ năm 1967 thành sách đề nghị họ (ngữ hệ) Nam-Thái trong vùng Đông Nam Á đă cho văn hoá TH mượn nhiều từ mà ít người biết đến.
 
(8) “A note on the origin of the Chinese duodenary cycle” bài viết của Jerry Norman (1985) trong cuốn ‘Linguistics of the Sino-Tibetan area – the state of the art’ (Pacific Linguistics, Series C – No. 87). Một học giả chuyên về tiếng Hán Cổ, đă từng viết cuốn “Chinese” khá  phổ  thông (NXB Cambridge University Press, 1988)
 
(9) Xem ghi chú (C) phần 2 bên trên.
 
(10) “Tiếng Việt Tuyệt Vời – âm m trong tiếng Việt” Nguyễn Cung Thông (1996) xuất bản ở Melbourne (Úc). Cuốn sách ghi lại hiện tượng m chỉ các bộ phận trên mặt con người thường bắt đầu bằng âm môi m : mắt-mặt-má-môi-miệng-mồm-mơm-mụn-mí .mi, mày, mép … Tiếng Mường cũng có hiện tượng m y như tiếng Việt, thêm vào đó là các từ chỉ người Mường như mường, mol cho thấy một liên hệ đặc biệt đến âm m. Hiện tượng m là một cánh cửa hé mở cho thấy tiếng Việt có thể thuộc vào họ Môn-Khme gồm có nhánh Việt-Mường. Vị trí của tiếng Việt Cổ và ngữ hệ là một yếu tố quan trọng để t́m về nguốn gốc tên 12 con giáp, nhớ rằng cách đây trên 2000 năm tiếng Việt (Cổ) rất khác tiếng Việt hiện đại. Ngoài ra, đầu năm 2006 ở SàiG̣n, người viết cho ra ḷ cuốn “Nguồn Gốc tên 12 con giápvà các liên hệ Việt, Hán Việt với ngôn ngữ láng giềng qua tiếng nói - Tập 1” được phát hành rất giới hạn. Cuốn này là tập hợp nhiều bài viết trong nhiều năm trước và làm căn bản cho các bài viết này.
 
(11) “A Handbook of Old Chinese Phonology” tác giả William H. Baxter, NXB Mouton De Gruyter (1992).Tác giả dùng các vần trong Kinh Thi để phục hồi âm Hán Cổ. Các cuốn “Middle Chinese : a study in Historical Phonology”  (1984) và “Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, late Middle Chinese and early Mandarin” (1991) của Edwin G. Pulleyblank dùng làm tài liệu chính cho sự so sánh và phục hồi âm cổ tiếng Hán. Truyền thống phục hồi âm cổ dựa vào âm vận của Kinh Thi, Thiết Vận … bắt đầu khởi sắc từ các công tŕnh nghiên cứu về âm Hán Cổ của Bernhard Karlgren từ năm 1915 (bài viết ‘Études sur la phonologie chinoise’ cũng là Luận án Tiến Sĩ của ông tại đại học Uppsala dựa vào “Thiết Vận” để phục hồi âm Hán Cổ) đến 1974 (bài ‘The book of Odes : Chinese text, transcription and translation”), nhưng có lẽ nổi tiếng nhất là cuốn “Grammata serica recensa” (1957). Để ư rằng các học giả trên đều đến từ nước ngoài TH như Baxter (Mỹ), Pulleyblank (Canada), Karlgren (Thuỵ Sĩ) … Có lẽ là người “phương xa” và với cách nh́n khách quan, khoa học hơn nên kiến thức về tiếng Hán Cổ gia tăng rất nhanh so với quá khứ.
 
(12) ĐNQATV (1895) ghi ‘làm tuồng mặt con khọn’, ‘làm con khọn (làm chẳng nên sự ǵ)’. Tự điển Việt-Hoa-Pháp (1937) của Gustav Hue cũng c̣n ghi nhận nghĩa này. Chữ Thân thường được dùng làm thành phần HT trong cách thành lập chữ Hán như hợp với bộ nhân nghĩa là suy rộng ra, hợp với bộ khẩu là rên la … thường đọc là shēn BK, nhưng hợp với bộ thổ th́ lại đọc là kūn BK (khôn), hợp với bộ đại là yăn BK (yểm HV) và hợp với bộ vũ cho ra chữ diàn BK (điện HV).  
 
(13) Tương quan giữa các từ HV như thân-cận-gần, thận-cẩn (thận trọng, cẩn trọng, cẩn trọng), thiên-kiên, th́-thị-kỷ … tuy cách viết khác nhau nhưng đọc giống và nghĩa cũng gần nhau – có thể là tàn tích của liên hệ th-k/kh HV hay sh-kh BK thời Tiên Tần trước khi các chữ viết được thống nhất. Có thể chúng có cùng gốc nhưng v́ sự phát triển của ngôn ngữ và biên ǵới (thêm các tiếng địa phương) nên mang những dạng khác nhau để phù hợp với các chức năng mới. Ta thấy một khuynh hướng tương tự khi so sánh tiếng Mường và tiếng Việt : khầng-sừng, khảu-sáu, khay-say, khàinh-sườn, khă-sữa, không-sông …(sđd). Nếu tiếng Mường bắt đầu tách khỏi tiếng Việt sớm nhất từ thời Hán th́ phù hợp với tương quan shēn-kūn BK đă nói ở trên trong tiếng Hán Cổ.   
 
(14) Dần có thể coi như tương đương với kính (j́ng BK) như cách viết cổ cho thấy – thành ra *kinh có thể là một dạng âm cổ phục hồi – và cũng liên hệ đến kễnh như trên. J́ng BK viết bằng bộ khuyển hợp với chữ cánh HT, là kính HV, nghĩa là một loài hổ dữ tợn đến nỗi ăn thịt mẹ nó sau khi sinh ra ! Theo người viết, kính có thể liên hệ đến kễnh. Ngoài ra, trong tiếng TH hiện nay có một chữ rất hiếm viết bằng bộ hổ hợp với chữ khứ (đă qua, đi), giọng BK bây giờ là kǎn, hǎn, QĐ ham2 … có nghĩa là loài hổ trắng, hổ giận dữ, tiếng hổ gầm … Có thể là tàn tích của khan/kan hay kễnh. Một chữ cũng rất hiếm là khư viết bằng bộ khẩu hợp với chữ khứ nghĩa là ngáp, qū BK, keoi1 QĐ và Hẹ ki1, kiap7 …cho thấy tàn tích các âm ngạc sau c̣n được duy tŕ trong tiếng địa phương (Nam TH). Như đă nói trong bài viết trước (phần 1), các từ có nguồn gốc phương Nam không được dùng và trở nên đào thải trong vốn từ TH hiện đại. Một trong những cách nghiên cứu về nguồn gốc tên 12 con giáp là t́m ra những từ Hán Cổ hiếm hay rất ít khi dùng để xác định âm và nghĩa gốc khi so sánh với các ngôn ngữ phương Nam.
Oan
Thố/ thỏ 
Miễn 
Miễn
Miễn
 
 
(từ bỏ) 
(gắng)
(thỏ con)
免 
女勉 
 
(5) Nguồn gốc oan trái của tên 12 con giáp
 
Sau khi đă lượt qua các tương ứng giữa tên Hán-Việt/HV của 12 con giáp và tên gọi các con thú trong tiếng Việt, ta thấy một liên hệ rất rơ nét. Đây thật là một sự khám phá bất ngờ so với đa số quan niệm từ trườc đến giờ (qua bao ngàn năm) và từ Đông sang Tây rằng tên 12 con giáp có nguồn gốc TH. Nguồn gốc oan trái này lại thêm oái ăm khi chính nguồn gốc chữ oan HV cho ta một cách chứng minh về chủ nhân của tên 12 con giáp. Như đă viết nhiều lần, tên 12 con giáp của VN khác với TH và dĩ nhiên các nước Á Châu khác (bị ảnh hưởng của TH) ở chỗ chi Măo/Mẹo chỉ con mèo chứ không phải con thỏ. Điều này được xác định rơ ràng từ thời Vương Sung (sinh năm 27- chết năm 97 đời Hán, thiên Thiên Sinh Luận của “Luận Hành” ) liên tục cho đến nay. Như vậy nếu ta có thể chứng minh rằng chi Măo/Mẹo đă từng chỉ con mèo, th́ bài ‘toán đố nguồn gốc tên 12 con giáp’ đă có được một lời giải rồi, không cần phải so sánh và khôi phục từng âm cổ cùng phân tách các chữ viết thời thượng cổ. Chữ Oan HV viết bằng bộ mịch (bao trùm lấy) hợp với chữ thố ở dưới, giọng Bắc Kinh/BK bây giờ là yuān là một dạng của wan (‘quan’ đọc theo giọng Nam, hay oan). Có hai cách giải thích về cách cấu tạo chữ oan : thứ nhất là nắp đậy biểu thị sự giới hạn đi lại của con thỏ do đó hàm ư oan trái cho con thỏ bị giam lại. Cách thứ hai dựa vào sự viết giống nhau giữa chữ thố và chữ miễn – hai chữ này không có sự phát biệt trong văn tự cổ thời Xuân Thu (770-476 TCN, theo cuốn “Ngữ Lâm Thú Thoại” Triệu Bá B́nh, Thời Học Đựng chủ biên 2005, NXB Văn Hoá Thông Tin). Chữ thố có thêm một nét (dấu phẩy) để chỉ cái đuôi con thỏ. Hai chữ bây giờ chỉ khác nhau có một nét nhỏ nhưng đọc và nghĩa khác nhau rất nhiều. Tuy nhiên, chữ thố trong bia khắc thời Hán và chữ miễn trong đề tự khắc hoạ ở nhà thờ Vũ Lương thời Đông Hán đều nói “Thần phục kiếm từ, dĩ thố kỳ tử” (dĩ miễn kỳ tử hay dĩ miễn kỳ tử là khích lệ con cái, sđd). Miễn HV hay vấn HV (biến âm m-v) đọc là miăn, wèn BK bây giờ so với min5, man6 Quảng Đông/QĐ. Thành ra miễnthố không những cùng cách viết mà cùng âm đọc giống nhau thời Xuân Thu, hay người xưa đă dùng âm đọc miễn để biểu thị chữ oan (thành phần hài thanh/HT). Do đó oan là bị nắp đậy và nhận oan khuất, chịu oan vậy. Theo người viết th́ miễn c̣n là một dạng cổ của măn – trong vốn từ hiện tại của tiếng TH không c̣n dùng nữa, mà tiếng Việt (Cổ) nghĩa là con mèo. Nghĩa này được ghi trong tự điển Việt-Hoa-Pháp (Gustave Hue, 1937) và Việt Nam Tự Điển (1954). Thật ra có những chữ rất hiếm như man viết bằng bộ khuyển hợp với chữ man HT (tần số dùng là 9 trên 171894734) hay bộ trĩ hợp với chữ man HT … đều đọc là man, đều có nghĩa là con mèo hoang (lynx, theo Wieger trong “Chinese Characters”). Thành ra, man hay măn đă từng hiện diện trong tiếng TH và có nghĩa là con mèo., và thố đă từng đọc giống như vậy. Tại sao thố lại đọc giống như mèo (miễn ở trên, hay miêu HV bây giờ) ? Có thể là h́nh dạng và thể chất giống nhau nên khi khắc hay viết rất khó phân biệt chăng ? Nhất là thời Xuân Thu khi chữ viết TH c̣n lộn xộn và có nhiều chữ tượng h́nh hơn lúc nào hết ? Đến thời Tần Thuỷ Hoàng (221-207 TCN) th́ thừa tướng Lư Tư mới bắt đầu thống nhất các cách viết. Biến âm -iê- và –a- ít thấy như trường hợp miên-man c̣n tàn tích trong các từ kiền-can, miên-man-mên (như Cao Miên là Cao Man/Cao Mên), triều-trào, hiệp-hạp-hợp, kiêu-cao, yên-an, hiếu-háo, di-dái, dị-dài, phi-bay, chỉ-giấy, vi-vây … đây là khuynh hướng biến nguyên âm trước (front vowels) thành những nguyên âm sau (back vowels) và mở rộng/tṛn miệng hơn. Phụ âm mũi ở cuối –n của măn đă mất đi để ta có Măo/Mẹo/mèo : khuynh hướng đơn giản hoá này (contraction) thường gặp trong tiếng Việt và tiếng TH như chun/chui, miến/ḿ, bác/bá, hùm/hổ, anh ấy/ảnh … wàn/ṃ BK (muôn/vạn/man), màn/ṃ BK (màn che) míng/ḿ BK (u ám, tối), shăn/xiàn/xiá BK (Thiểm, tỉnh Thiểm tây) …v..v.. Ngay chữ mội HV (nghĩa là dơ bẩn) viết bằng bộ thuỷ hợp với chữ miễn HT c̣n có thể đọc là miễn - giọng BK bây giờ là měi, mán, măn, màn so với giọng QĐ mui5 … cho thấy khuynh hướng rút gọn âm cuối. Do đó ta có thể giải thích liên hệ măn/Măo/Mẹo/mèo. C̣n thanh điệu th́ phức tạp hơn, nhưng để ư một chữ đă hiện diện rất lâu đời trong tiếng Việt là mộ, mồ, mô và mă HV (mù, mú BK) : bốn thanh điệu cho thấy chuỗi dài thời gian đă trải qua cũng như bốn thanh điệu của măn/Măo/Mẹo/mèo và meo (tiếng kêu của con mèo), so với ngấm/ngẫm/ngầm/ngâm và ngậm (hàn, hàn BK hàm HV). Một điểm đáng chú ư là một cách ghi âm miễn, miện, măn/văn (hay miăn BK) là dùng chữ miễn (tránh khỏi) trong cách thành lập các chữ Hán, th́ dụ như miễn (chữ miễn hợp với chữ lực nghĩa là khuyên cố gắng), văn (bộ thủ hợp với chữ miễn, nghĩa là kéo lại - biến âm m-v), văn (bộ nhật hợp với chữ miễn, nghĩa là buổi chiều) …. C̣n thố (tù BK) không thấy dùng làm thành phần HT trong vốn từ TH hiện đại trừ cỏ thỏ ti (thỏ ti tử) viết bằng bộ thảo hợp với chữ thỏ dùng làm thuốc. Miễn viết bằng bộ nữ hợp với chữ miễn (gắng) là một chữ rất hiếm thấy, nghĩa là thỏ con, đây là một gạch nối giữa miễn và thỏ được thấy trong cách viết cổ. Ngoài ra một chữ Hán rất hiếm nữa viết bằng bộ khẩu hợp với chữ diện (mián BK, HT) cũng tương đương với chữ miễn viết bằng bộ khẩu hợp với chữ miễn HT cho thấy cách đọc chữ miễn thời xưa. Thỏ rất gần gũi với tộc Hán, khác với mèo (xem bài viết riêng về chi Măo/Mẹo cùng tác giả) trong văn hoá dân gian của tộc Việt : cả hai con đều mang vài đặc tính tiêu cực phản ánh qua ca dao tục ngữ như “ăn như mèo ngửi”, “nhát như thỏ đế” … chứ không tao nhă như “ngọc thỏ” (con thỏ ngọc chỉ mặt trăng), hay “..mang giầy thỏ, chạy được nhanh..” trong văn hoá TH.
Tóm tắt các dữ kiện ngôn ngữ trên ta thấy thỏ có thể được dùng để thay cho mèo thời Tiên Tần để gần với dân tộc Hán hơn, rồi càng ngày 12 con giáp càng được dùng trong các hoạt động bói toán và tín ngưỡng, chiếm một địa vị quan trọng trong các nền văn hoá Á Đông – xa hẳn với tên các loài cầm thú đă tạo ra chúng. Điều này là một hiện tượng rất tự nhiên của ngôn ngữ cho thấy tính chất quy ước của con người khi sống chung với nhau. Chính v́ tiếng Việt c̣n duy tŕ con mèo cho chi Măo/Mẹo (qua khẩu ngữ) mà ta có thể lập luận rằng nguồn gốc tên 12 con giáp chính là từ tiếng Việt Cổ, ít nhất là vào thời Tiên Tần. Các cách viết chỉ là những kư hiệu ghi nhận lại âm đọc thời bấy giờ mà thôi. Không biết có phải Tàu mượn thẳng từ tiếng Việt Cổ qua giao lưu văn hoá với nhóm Bách Việt, khi nhóm Bách Việt c̣n hùng mạnh, nhớ là tộc Việt thuộc vào nhóm Bách Việt cũng như các nhóm Hẹ, Tiều … đă phải di chuyển đến các miền biển v́ áp lực phương Bắc quá mạnh; Hay là qua các quan lại gốc Việt làm việc trong triều đ́nh TH thời đó đă cố ư “gài” các chữ Việt Cổ để cho hậu thế học hỏi ? Có một điều dễ nhận ra là các từ Việt Cổ trong TH càng ngày càng bị đào thải (như đă viết từ phần trước), cũng như một số từ bị đổi làm cho việc nhận ra tên cổ của 12 con giáp trở nên rất khó khăn. Thêm vào đó là số lượng tài liệu viết bằng chữ Hán rất phong phú, hợp với ảnh hưởng quan trọng của các triều đại Hán, Đường - khi văn hoá Bách Việt đă ch́m sâu vào dĩ văng và văn hoá TH trở nên nổi bật – và chính các thời đại này mà 12 con giáp bắt đầu du nhập vào các nườc chung quanh TH. Quá tŕnh giao lưu văn hoá (trong đó có cách tính năm, tuổi, bói toán, phong thuỷ, thập nhị chi và thập can…) hầu như một chiều này làm cho ta cứ tưởng rằng tên 12 con giáp là từ tiếng TH chứ không phải tiếng Việt, thật là một điều oan trái vậy.
 

Phần III

1. Giới thiệu tổng quát
 
Từ các bài viết trước (phần 1, 2 – xem lưu trữ tháng 6/2006 trên khoahoc.net) ta đă thấy một số liên hệ sơ lược của tên 12 con giáp như Tư/Tử/chuột, Ngọ/ngựa, Măo/Mẹo/mèo, Dần/*kian/kễnh (cọp), Thân/Khon/khọn (khỉ), Sửu/*ch-lư/klu/tlu (trâu). Phần này sẽ tóm tắt các tương quan c̣n lại giữa tên 12 con giáp và tên gọi các con vật trong tiếng Việt, Việt Cổ. Một lần nữa, nguời viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ để bài viết dễ đọc và dễ cảm thông hơn. Với những tài liệu bằng chữ Hán, Nôm, Việt và ngoại ngữ hầu như đều hàm ư rằng nguồn gốc Trung Hoa (TH) của tên 12 con giáp, nên vấn đề đặt lại nguồn gốc không dễ dàng cũng như vượt qua bức tường rất cao và dày của ‘định kiến’ này qua bao ngàn năm. Chúng ta hăy xem vài vết tích của tiếng Việt trong tiếng Hán (Cổ) để thấy khuynh hướng biến dần đi của vốn từ phương Nam trong tiếng TH hiện đại qua các tên chỉ loài vật như ong, bướm …v..v… Nhắc lại rằng trong Phần 1 chúng ta đă duyệt qua tiếng cóc, voi, vịt, chuồn (chuồn) đă từng hiện diện trong tiếng TH dù rằng ít thấy. Từ khuynh hướng gọi tên các động vật, hi vọng chúng ta sẽ thấy rơ hơn tại sao tên 12 con giáp lại rất gần gũi với tộc Việt chứ không phải của TH như từ trước đến nay như mọi người đều lầm tưởng ! Ư thức được rằng sự thay đổi một định kiến đă nằm sâu trong xương tuỷ chúng ta từ bao ngàn năm nay thật là khó khăn, tuy vậy sự thật vẫn cần phải được đưa ra ánh sáng để các cuộc nghiên cứu trong tương lai có thể kiểm nghiệm một cách nghiêm túc, khách quan và theo đúng phong cách của khoa học hiện đại. Các bài viết 1, 2 và 3 chỉ tóm tắt rất sơ lược quan hệ tên 12 con giáp, những bài viết sau sẽ chi tiết hơn và phân tích từng tên mỗi con để thấy rơ nét các mối dây liên hệ đến tộc Việt. Phiên âm giọng Bắc Kinh theo lối Phiên Âm (pinyin) thường gặp hiện nay.
 
2. Tiếng Việt và tiếng Hán Cổ (hay tiếng Hán Cổ trong tiếng Việt)
 
2.1 Ong là động vật có nhiều gắn bó với văn hoá VN qua các thành ngữ như “nuôi ong tay áo” và ‘chạy như ong vỡ tổ”… cho thấy tâm lư con người. Danh từ ong được dùng 8 lần trong truyện Kiều so với bướm (7 lần)
 
                        “Tiếc thay một đoá trà mi
                        Con ong đă tỏ (mở) đường đi lối về”                (câu 845-846, Kiều)
 
Ong viết bằng chữ Nôm thường gặp là bộ trùng hợp với chữ phùng (gặp) hài thanh (HT), chữ này cũng chính là phong Hán Việt (HV) nghĩa là con ong - giọng Bắc Kinh (BK) bây giờ là feng1, Quảng Đông (QĐ) là fung1, Hẹ là fung1, bung1 … cho thấy tương quan ong-phong rất đặc biệt, có thể là cùng một gốc như qua các tương quan ông-công, ung-muống. Ông (bà) HV viết bằng bộ vũ hợp với chữ công, giọng BK bây giờ là weng1, weng3 so với jung1 QĐ, wung1, vung1 Hẹ và ong1 (Ngô), ang1 (Minnan/Đài Loan). Ngôn ngữ TH hiện nay không có nhiều tiếng bắt đầu bằng nguyên âm a, e, i/y, o/ơ, u … như tiếng Việt – các âm đầu này thường bị môi hoá hay ngạc hoá thành các dạng wu-, wo-, ya-, yu- … và biến đổi nhiều hơn để trở thành vo-, vu- (âm Hán thời Trung Cổ c̣n âm đầu v-) và fo-, fu- hay mo-, mu- … Thí dụ như úng HV (cái ṿ, hũ) viết bằng bộ ngoă (ngói) hay phữu (đồ sành) hợp với chữ ung HT, giọng BK bây giờ là weng4, yong1, yong2, yong3 so với giọng QĐ ung3, ngung3, ong3 và Hẹ là wung5, vung5 – so với ong1 (Ngô) và ang3 (Minnan). Có khi môi hoá để trở thành âm môi môi (phụ âm m) như ung HV, weng4/yong1 BK, ung3/ngung3 QĐ, wung5/jung1/rung1 Hẹ … mà tiếng Việt là rau muống. Thật ra chữ ong viết bằng ông HT là một chữ hiếm trong vốn từ TH hiện nay, tần số dùng1 là 21 trên 237243358, viết bằng bộ trùng hợp với chữ ông HT, giọng BK bây giờ là weng1, weng3 so với jung1 QĐ và vung1 Hẹ nghĩa là con ong ṿ vẽ. Chữ này đă có từ lâu, ít nhất là thời Hán khi Hứa Thận ghi lại trong Thuyết Văn Giải Tự là “…ông, trùng tại ngư mă b́ giả…”. Khuynh hướng hiện nay dùng điệp từ (từ ghép) của tiếng TH làm nguồn gốc của phong (con ong) khó được nhận ra : như ḿfeng1 (mật phong, nghĩa là con ong) hay huàngfeng1 (hoàng phong), măfeng1 (mă phong) chỉ con ong ṿ vẽ. Thường th́ các từ HV như pḥng, phóng, phụng, phủ, phi, Phật … có âm cổ hơn c̣n duy tŕ trong tiếng Việt là buồng, buông, bưng, búa, bay, Bụt … rất khác với liên hệ phong-ong. Một số tác giả như Lê Ngọc Trụ (“Tầm Nguyên Tự Điển VN” 1993) cho rằng ong có gốc là phong, nhưng ngược lại có một số tác giả khác lại cho rằng phong HV (feng1 BK) có gốc là ong (như theo Paul Benedict2 trong “Austro-Thai Language and Culture” 1975).    
 
2.2 Bướm thường thấy qua từ láy ‘bươm bướm’ hay với nghĩa rộng hơn trong cách dùng ‘bay bướm’. Chữ Nôm viết bướm bằng bộ khẩu hoặc bộ trùng hợp với chữ biếm, hay bộ trùng hợp với chữ phạp (viết ngắn đi). So với tiếng Mường Thạch Bi là pươm, pướm (theo từ điển Mường-Việt, NXB Văn Hoá Dân Tộc, Nguyễn Văn Khang chủ biên, Hà Nội 2002), pung khamu (tiếng Môn), pung paq3 (Danaw), pungpaq (Riang), paipyang (Thái), pam pam (Khamu) … Trong vốn từ TH hiện nay có chữ péng BK, bang1 QĐ viết bằng bộ trùng hợp với chữ bằng HT (thành ra có thể đọc là bằng, bồng), theo người viết th́ chữ này là tàn tích của âm bướm rất hiếm thấy so với các chữ dié BK (điệp HV), hú BK (hồ HV) hay chữ ghép hồ điệp đều có nghĩa là con bướm. Tuy nhiên, cũng trong vốn từ TH hiện nay ta c̣n thấy péng BK hay pung4 QĐ, pung2 Hẹ viết bằng bộ trúc hợp với chữ phùng HT có nghĩa là cái màn che, cái buồm. Cái buồm tiếng HV là phàm, hay fán BK với phụ âm đầu b- chính là âm cổ3 của phụ âm f- (ph-) c̣n được duy tŕ trong tiếng Việt. Như vậy có liên hệ ǵ giữa hai từ bướm và buồm tiếng Việt ? Tiếng Việt có đặc điểm là âm thanh gợi nhiều h́nh ảnh như âm –ong cho thấy một h́ng dáng cong cong, ṿng, móng, tṛng, ḷng tḥng, ḷng ṿng … Theo người viết th́ cánh buồm xưa kia có h́nh cánh bướm và đây là mối dây liên hệ - so với cách dùng con diều (điêu HV, giọng BK là yáo, yào) có h́nh cánh con diều hâu vậy. Bướm là động vật có trước, sau đó các tàu bè mới dựa vào h́nh dạng cánh bướm mà làm ra *bườm hay buồm - với thanh huyền để cho khác biệt. Cách dùng thanh điệu để chỉ hai việc khác biệt nhưng lại có những điểm giống nhau thường gặp trong tiếng Hán Cổ mà vết tích c̣n trong tiếng HV và Việt như đo (động từ) và độ (cũng dùng làm danh từ), hành (làm, động từ) và hạnh (danh từ), truyền và truyện, phân và phần … so với đấy và đây, ngày hôm kia và ngày hôm kỉa/ḱa, trôi/trổi/trồi/trội …v…v…    
 
Tóm lại trong tiếng TH hiện nay c̣n một số tiếng Việt Cổ và càng ngày càng mất dần đi có thể v́ hệ thống âm điệu khác nhau hay có thể v́ khuynh hướng cố t́nh đào thải các tiếng phương Nam của các chế độ phong kiến phương Bắc chăng ? Trường hợp của tên 12 con giáp rất đặc biệt : chúng đă làm nền tảng văn hoá và tín ngưỡng dân gian qua bao triều đại, và gốc rễ có quá nhiều thành ra không thế lực nào có thể cắt đứt hay bóp méo được nền văn hoá b́nh dân này4.
 
3. Tên các con giáp c̣n lại
 
3.1 Th́n/Thần HV, giọng BK bây giờ là chén – âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần HV. Ngoài ra, âm chén BK đă từng có âm họng sau (velar) kh- theo Thuyết Văn Giải Tự - hay thần đọc như là *khân, điều này được Jerry Norman ghi nhận trong bài “ A note on the origin of the Chinese duodenary cycle’ (trong cuốn “Linguistics of the Sino-Tibetan area” 1985).  Phụ âm đầu kh- tương ứng với các dạng chỉ con trăn như tiếng Việt, tiếng Môn (klan, klon), Chrâu, Kơho (klăn) … Thêm vào đó là cách viết rất hiếm của chữ giao bằng bộ trùng hợp với chữ th́n bên phải có nghĩa là ‘.. h́nh dáng như con rắn nhưng lớn hơn và có sừng như rồng..” (Khang Hi Tự Điển, theo Norman). Các dữ kiện này có thể giải thích phần nào con vật tượng trưng cho chi này là rồng. Tuy nhiên, theo người viết nếu phục hồi âm cổ của Th́n/Thần là *tsri(a)n th́ ta có thể hiểu được các dạng sau này như Th́n/Thần, tlan (âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts- mất đi), rắn, tŕnh (loài cá giống con lươn), rồng/long (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn/bản…) và khuynh hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn > thằn lằn, *tlian > thuồng luồng … Các loài vật này đều có h́ng cong ṿng như con rồng5. Tiếng Thái gọi năm Th́n là bpee ma rohng cho thấy vết tích của dạng rồng trong các ngôn ngữ phương Nam.
 
3.2 Tỵ/Tị  HV, giọng BK bây giờ là ś so với zi6 QĐ, Hẹ là ze5, cih5, si5, su5… Trong cách viết/khắc cổ TH của tên 12 con giáp th́ Tỵ và Hợi là các chữ tượng h́nh cho thấy rơ nguồn gốc loài vật, nếu không kể các chữ khác ghi lại h́nh cây, đồ vật…. Cũng như chữ (Hán) của tên 12 con giáp6 thường được dùng làm thành phần HT trong quá tŕnh thành lập chữ mới, trừ Tuất ít được dùng. Như vậy là ta có 10 trên 12 tên con vật là loại chữ HT, hay khoảng 83 % so với hơn 90 % chữ Hán hiện đại là loại HT (có tác giả cho rằng tỷ số HT có thể đến 97 %). Loại chữ tượng h́nh càng ngày càng ít đi và càng khó nhận ra h́nh dạng nguyên thuỷ (qua các đợt chỉnh lư và đơn giản hoá). Chữ Tỵ c̣n được dùng để chỉ ngày lễ Thượng Tỵ cầu mát vào đầu tháng Ba của nước Trịnh, điều này cho thấy tên 12 con giáp có thể đă hiện diện từ thời Xuân Thu (770-476 Trước Công Nguyên/TCN). Âm cổ phục hồi của Tỵ là *zji? theo William Baxter (“A Handbook of Old Chinese Phonology” 1992), theo người viết liên hệ đến rít hay rết tiếng Việt. Kasit (tiếng Mường Ruc) nghĩa là con rít (rết, rệt) cho thấy dạng âm cổ *sit, so với giọng BK th́ phụ âm cuối –t thường mất đi như guó BK (quốc HV, c̣n duy tŕ âm cuối –c), ĺ BK (lực HV), fó BK (Phật HV), shí BK (thập HV, mười), qi1 BK (thất HV, bảy), zhí BK (chất HV) … C̣n phụ âm đầu s- thường biến thành t- khi nhập vào tiếng Việt cũng như các chữ khác như sài BK (tái HV, cửa ải), sàn BK (tán HV), shàn BK (thiện HV), shàng BK (thương HV), suí BK (tuỳ HV), ś BK (tự HV, chùa), ṣng BK (tụng HV, kiện) … Như vậy ś BK (Tỵ HV)  có cơ sở giải thích theo dạng rít Việt, thêm vào đó là tương ứng s-r khi ta so sánh tiếng Mường và Việt (như răng có âm cổ là *săng, theo Vương Lộc trong “An Nam Dịch Ngữ - giới thiệu và chú giải” 1995), và liên hệ đồng đại trong tiếng Việt như siết-riết, sít-rít, sầu-rầu, sờ-rờ, xà-rà, súc-rút, sầm-rầm, xẻo-rẻo…. Tiếng Việt c̣n có cách dùng rắn rít cho thấy hai loài vật này rất gần với nhau, là những loài sống trong hang hốc, ḅ sát và có thể rất độc hại. Thành ra Tỵ có thể đă từng là rít cũng không khó hiểu cho lắm; Các di tích t́m thấy từ thời Tiên Tần c̣n cho thấy sâu bọ cũng từng là tên của các con giáp (theo Thường Tuấn trong “Văn hoá 12 con giáp” 2005). Tiếng Thái bây giờ gọi năm Tỵ là bpee ma seng cho thấy dạng seng hay *săng (rắn).
 
3.3 Tuất HV so với giọng BK bây giờ là xu1, seot1 QĐ được tượng trưng bằng con chó. Để ư Tư/Tí/Tử liên hệ đến chuột với biến âm t-ch th́ Tuất cũng có thể liên hệ đến chó (qua phụ âm đầu). Tiếng Hán có chữ chúc/túc HV rất hiếm1 viết bằng bộ khuyển hợp với chữ túc HT (chân, cẳng) nghĩa là con chó nổi tiếng - giọng BK bây giờ là què, hú, qiăo, răn so với zoek3, coek3 QĐ cok7, sit7 Hẹ … Chữ này là một tàn tích của Tuất hàm nghĩa chó trong vốn từ TH hiện đại. So sánh các từ chỉ chó như chọ (tiếng Mường), cho (Sakai, Boloven), chuô (Kháng), txo (Danaw), xoq1 (Wa), choq (Sơđăng), axu, chuak, chook (Môn), xo (Kơho, Stiêng, Chơro), achoq (Chứt), xor (Savana), cho (Laqven, Biat) …v..v… cho thấy tiếng Môn c̣n duy tŕ dạng chuak (hay tuất). Tiếng Thái bây giờ gọi năm Tuất là bpee jaaw (năm chó).
3.4 Mùi/Vị HV – cách dùng thông thường của Mùi cho thấy dạng âm cổ hơn so với Vị HV gần với giọng BK bây giờ là wèi, giọng QĐ là mei6, Hẹ là mui5, mui6, mui3, vui5, wui5, Ngô là vi6, Minnan (Đài Loan) là bi7 … Các phương ngữ TH cho thấy rơ các biến âm b-v, m-v, w-v … cũng hiện diện trong tiếng HV và Việt. Liên hệ m-v c̣n thấy trong các cặp muôn-vạn, múa-vũ, mùa-vụ, mựa-vô, mù-vụ, muộn-văn … Các dạng âm cổ phục hồi theo Jerry Norman hay các tác giả trước đây như *mjôdh đều không giải thích được mối liên hệ đến dê, nhưng dựa vào cặp mùi-vị, ta có thể khôi phục một dạng cổ là *mvji(e), để ư nhóm phụ âm mv- đọc như và giọng Nam (tiếng Việt), và từ đó ta có một dạng nữa là dê. Ngoài ra, nếu để ư tiếng kêu đặc thù của loài dê là ‘be be’ hay mị HV, mie1, mi3, măi BK có nhiều cách viết khác nhau như dùng bộ khẩu, bộ dương (dê) cho thấy Mùi/Vị có thể có nguồn gốc tượng thanh – hay bắt chước tiếng kêu con vật cũng như chim cu, con quạ (ác), con mèo … cũng là một hiện tượng tự nhiên mà thôi. Tiếng Thái gọi năm Nùi là bpea ma mae tương đồng với dạng âm cổ *mvji trên.
 
3.5 Dậu HV so với giọng BK bây giờ là you3, jau5 QĐ … cũng chính là bộ thủ thứ 164 trong 214 bộ căn bản. Dậu và Tư (bộ thủ thứ 39) là hai chữ được dùng làm bộ thủ trong 12 chữ viết tên con giáp - điều này cho thấy sự quan trọng của các chữ và nghĩa này trong văn hoá TH. Nếu Tư hay Tử có nghĩa là con phản ánh liên hệ gia đ́nh huyết tộc th́ dậu biểu tượng cho rượu chè, một hoạt động căn bản của xă hội nông nghiệp. Tuy nhiên cả hai từ này đă bị ‘Hoa hoá’ quá lâu như trên nên chẳng thấy dính líu ǵ đến các loài vật ! Nhưng h́nh ảnh và các hoạt động con người từ từ lấn chiếm dần tên 12 con vật tổ (totem) này. Trong vốn từ TH hiện đại có chữ dậu HV, you3 BK viết bằng bộ điểu hợp với chữ hữu bên trái (rất hiếm) nghĩa là một loại chim giống loại trĩ, mà có thể coi như là loại gà (theo “VN Tự Điển” 1954), để ư rằng hai chữ trĩ và kê (gà) đều viết bằng bộ chuy (chim đuôi ngắn, bộ thủ thứ 171 trong 214 bộ). Theo người viết, đây là sợi dây gắn liền dậu và gà mà ta vẫn c̣n thấy vết tích trong chữ cổ (hiếm) TH. Thêm vào đó, một cách giải thích khác theo tác giả Jerry Norman (sđd, 1985) dựa trên kết quả nghiên cứu của André Haudricourt (1965) rằng các phụ âm v, d, g của tiếng Mường và Việt có thể là vết tích của các tiền tố cổ
 
            Tiếng Việt                    gà                    gạo                  vải   
         Mường                        ka                    kao                  pai
            Ruc                             rơka                 rơko                kupal
            Arem                           lak                   -                      -
            May                            -                      rơko                kơpai
 
Từ đó, Norman đưa ra dạng âm cổ phục hồi của gà là *rơka hay *ruka. Theo người viết th́ quá tŕnh mất tiền tố này cũng giống như dạng kasit cho ra *sit hay rít đă nói ở phần Tư trên. Tác giả Hồ Lê cũng ghi nhận gà là từ Nam Á (Austroasiatic) trong bài viết “Từ Nam Á trong tiếng Việt” (trong cuốn “Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc” NXB Khoa Học Xă Hội – Hà Nội 2002). Tiếng Thái gọi năm Dậu là bpe gai (năm kê hay gà) hay là bpee ra gaa (năm gà) phù hợp với các dạng Mường.
 
3.6 Hợi HV so với giọng BK bây giờ là hài, QĐ là hoi6. Âm cổ phục hồI có dạng *goi/kui - liên hệ của hợi và heo có thể thấy được qua tiếng Mường củi/kun/kul : phụ âm đầu h-k cùng vị trí phát âm nên dễ hoán chuyển cho nhau như hữu-có, hồ-c̣ (hồ cầm là đàn c̣), Hùng-khun (vua/thủ lănh dân Mường), Hán-khan (lănh tụ), hộ-cửa, hơi-khói/khí, hầu-khỉ, hoá-của … Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của, 1895) c̣n ghi là “..cá cúi : thứ cá biển nhiều mỡ như heo, cũng gọi là heo biển; Heo cúi : tiếng đôi nghĩa là con heo..” (trang 201). Gỏi có thể đă từng làm bằng thịt heo, nhưng nghĩa đă mở rộng để chỉ cá, tôm, gà … trộn với rau. Theo Jerry Norman (sđd) th́ gỏi có nghĩa là heo (tiếng Việt Cổ) ??  Không những Hợi liên hệ đến heo/lợn qua tiếng Mường hay Việt Cổ nhưng tàn tích có thể hiện diện trong vốn từ TH hiện đại. Có vài chữ mà theo người viết là các dạng khác nhau của Hợi hay *hị và *hệ (so sánh với các biến âm thi/thơ/thư, kỳ/cờ, thị/chợ, li/rời, di/dời, vị/bởi, ti/tơ, bị/bới/búi…). Chữ hê/hề/hệ với giọng BK bây giờ là xi1, hei1, sik1 QĐ viết bằng bộ khuyển hợp với chữ hí/hô/huy HT có nghĩa là con heo - chữ này rất ít thấy1 (hiếm). Một chữ nữa thường gặp hơn là HV so với giọng BK bây giờ là hei1, héi viết bằng bộ thỉ hợp với chữ hi HT – cũng chỉ con heo/lợn nhưng không thông dụng bằng các chữ khác như trư, thỉ, trề, ba … Vết tích của liên hệ hợi-cúi c̣n thấy trong chữ hui1 BK (hay hôi/huy/khôi HV) viết bằng bộ thỉ hợp với chữ thổ1 bên phải nghĩa là con heo. Tiếng Thái bây giờ gọi năm Hợi là bpee goon - để ư dạng cun là con heo của tiếng Mường – cho thấy tiếng Thái vẫn c̣n duy tŕ một số tiếng Việt Cổ và là một dây nối quan trọng để hiểu rơ hơn nguồn gốc tên 12 con giáp.
 
Như vậy là ta đă xem qua tên 12 con giáp, thoạt nh́n th́ các từ HV Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi có vẻ như có gốc Tàu – nhưng tra kỹ ra th́ thấy rơ những mối dây liên hệ với các ngôn ngữ phương Nam - đặc biệt nhất là tiếng Việt và Việt Cổ qua tiếng Mường và họ Môn-Khme. Điều này càng dễ hiểu nếu ta nh́n rộng ra các tên loài vật vẫn c̣n tàn tích trong vốn từ TH hiện đại, tuy càng ngày chúng càng bị đào thải v́ hệ thống âm thanh không phù hợp hay v́ các đợt ‘chỉnh lư’, ‘đơn giản hoá’ chữ viết cùng khuynh hướng cố t́nh bôi xoá ảnh hưởng từ phương Nam khi nền văn hoá này khởi sắc trước thời Tần. Với ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá TH từ đời Hán và sau đó từ đời Đường, Tống… với sức ép của nhóm thống trị từ phương Bắc tràn xuống, các tên 12 con vật tổ đă từ từ thay thế bằng h́nh ảnh con người, mang nặng màu sắc văn hoá TH hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đă trở nên trừu tượng và c̣n ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán). Tuy nhiên, cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá b́nh dân (khẩu ngữ), trong đó dân ta vẫn khư khư coi mèo là biểu tượng của chi Măo ! Chính v́ thế mà ta phải đặt lại vấn đề nguồn gốc của tên 12 con giáp, đúng theo tinh thần của người trước gói ghém trong câu
 
                        “Trăm năm bia đá th́ ṃn
                        “Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ”   
 
4. Phụ chú và phê b́nh thêm
 
(1) dữ kiện về tần số dùng của các chữ Hán hiện đại dựa vào tài liệu trên mạng Internet www.chinalanguage.com/cgi-bin/dict.php. Các chữ hiếm có tần số dùng rất thấp, thường rất ít gặp trong các tự điển hiện đại.
 
(2) Ong có âm cổ phục hồi hệ Nam Thái (Austro-Thai) theo Benedict là *bluung không phù hợp với các dạng QĐ, Hẹ, Việt. Nếu xem các cấu tạo chữ Hán, ta thấy ông thường đuợc dùng làm thành phần HT. Chữ này lại được viết bằng bộ vũ hợp với chữ công cho thấy dạng âm cổ ô- hay hô-, kô- … Xem qua các ngôn ngữ láng giềng ta thấy tiếng East Mnông có ?uong (? chỉ âm bật thanh quản/glottal stop) để chỉ con ong, so với ?ong (tiếng Mường, Bahna, Stiêng, Chrau, Kơho, Sơđăng) theo Paul Sidwell trong cuốn “Proto South Bahnaric” (2000). Sidwell ghi nhận âm cổ phục hồi của tiếng tiền Katuic (Proto-Katuic) là *hang, tiếng tiền Waic là *?ong, *anh, tiếng tiền Chàm là *hong so với huing (tiếng Môn), wong/wol (Riang), ong (Wa), on (Paluang), hong (Besisi), cong (Semang, một dạng Bahna). Các tương quan trên, nhất là từ các ngôn ngữ không có nhiều giao lưu với TH, cho thấy feng1 BK (phong HV) rất có thể là từ mượn từ các dân tộc ở phương Nam từ Thượng Cổ. Tiếng Thái có chữ pheungF đọc như phương tiếng Việt, có thể là ảnh hưởng của tiếng TH Trung Cổ - cùng thời với sự xâm nhập và phát triển có hệ thống của tiếng HV thời Đường Tống.
 
(3) Biến âm b-ph/f rất thường gặp trong ngôn ngữ như qua định luật Grimm trong họ Ấn Âu... Trên phương diện lịch đại ta thấy các cặp từ bỏ-phế, bài-phé, buồng-pḥng, buông-phóng, bộ-pho, búa-phủ, bổ/bửa-phẩu/phẫu, bể-phá, bè-phái, bay-phi, bưng-phụng, buồn-phiền, buồm-phàm, bún-phấn, buộc-phọc, bèo-phiêu, bào-phao, Bụt-Phật … ngay cả trên phương diện đồng đại ta thấy bỏng-phỏng, b́nh-bịch hay bành-bạch, phành phạch …  tuy không phổ thông cho lắm. Như vậy th́ b- dẫn đến ph- hay ngược lại ? Nếu xem chữ Bụt (từ tiếng Phạn Budh-) để cho ra chữ Phật HV so với chữ Bụt đi thẳng vào tiếng Việt th́ rơ ràng là b- đă hiện diện trước ph- . Ngoài ra khi dùng từ ghép trong tiếng Việt th́ chữ có trước thường đi trước như buồn-phiền, bè-phái, bỏ-phế….. Thêm vào đó là các âm mạnh (strong sound) như b- có khuynh hướng trở thành âm yếu như p-, ph/f- hay âm vang trở thành âm điếc : hiện tượng này gọi là nhược hoá (lenition hay weakening). 
 
(4) Thật ra th́ đă có những hoạt động thay đổi hoặc ‘chỉnh lư’ các tên như người viết đă từng nêu lên trong bài viết (phần 2) : măn (mèo) hay miễn thay bằng thố (thỏ), nhưng dân Việt vẫn khăng khăng giữ tên gọi Măo để chỉ con mèo chứ không dùng thỏ. May thay, chính văn hoá truyền khẩu lại duy tŕ được nghĩa nguyên thuỷ, chứ nếu dựa vào chữ Hán sau nhiều đợt ‘chỉnh lư’ th́ có thể không truy được ngọn ngành cho thoả đáng !
 
(5) Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hoá VN” NXB Giáo Dục – Thành Phố HCM (1999) đă ghi nhận rồng xuất phát từ vùng Đông Nam Á và ảnh hưởng đến văn hoá TH (trang 135). Điều này phù hợp với dạng âm cổ phục hồi *tsri(a)n để cho ra các tiếng khác như trăn, rắn, rồng, lươn, thuồng luồng, thằn lằn … 
 
(6) qua khung cửa rất nhỏ của tên và cách viết 12 con giáp, ta có thể t́m thấy nhiều dữ kiện đặc biệt của tiếng TH, tiếng HV, Việt … và qua các cách viết cổ của chúng, ta có thể t́m lại được phần nào nền văn hoá cổ đại của phương Đông như sự ‘kính nể’ các loài vật tín ngưỡng thờ các loài vật, dùng chúng làm totem ..v..v..
 
5. Đính chính và bổ túc
 
5.1 V́ phải tranh thủ thời gian để đánh các bài viết này, nên người viết không thể nào tránh được một số lỗi thông thường như bỏ dấu sai, thiếu/lộn nét, quá tóm tắt, ư mơ hồ … Thí dụ như trong phần 2 ḍng 7 trang 1, gióng lên viết là ‘giống lên’; Trang 2 ḍng 1 ‘on’ và ‘kun’ đổi cho nhau ..v..v… Khi đọc lại bài đánh th́ trễ quá, bài đă lên mạng !
 
5.2  Đáng lẽ phải chêm một số chữ Hán để cho rơ nghĩa cho các bài viết này, nhưng v́ đa số chữ Hán dùng trong bài viết là loại chữ hiếm không dễ dán vào, người viết vẫn c̣n đang t́m loại fonts cổ điển và thích hợp để giải quyết vấn nạn này. Tuy nhiên, hi vọng bằng cách ghi lại bộ thủ và thành phần HT, mức độ sai trái sẽ giảm thiểu tối đa.
 
5.3 Quư độc giả muốn trao đổi thêm ư kiến để chúng ta cùng học hỏi thêm, xin liên lạc với Ban Biên Tập của khoahoc.net hay người viết qua địa chỉ email   nguyencungthong@yahoo.com, mong rằng “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên ḥn núi cao’ trong biển học vô cùng vậy.
1. Giới thiệu tổng quát
 
Từ các bài viết trước (phần 1, 2 – xem lưu trữ tháng 6/2006 trên khoahoc.net) ta đă thấy một số liên hệ sơ lược của tên 12 con giáp như Tư/Tử/chuột, Ngọ/ngựa, Măo/Mẹo/mèo, Dần/*kian/kễnh (cọp), Thân/Khon/khọn (khỉ), Sửu/*ch-lư/klu/tlu (trâu). Phần này sẽ tóm tắt các tương quan c̣n lại giữa tên 12 con giáp và tên gọi các con vật trong tiếng Việt, Việt Cổ. Một lần nữa, nguời viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ để bài viết dễ đọc và dễ cảm thông hơn. Với những tài liệu bằng chữ Hán, Nôm, Việt và ngoại ngữ hầu như đều hàm ư rằng nguồn gốc Trung Hoa (TH) của tên 12 con giáp, nên vấn đề đặt lại nguồn gốc không dễ dàng cũng như vượt qua bức tường rất cao và dày của ‘định kiến’ này qua bao ngàn năm. Chúng ta hăy xem vài vết tích của tiếng Việt trong tiếng Hán (Cổ) để thấy khuynh hướng biến dần đi của vốn từ phương Nam trong tiếng TH hiện đại qua các tên chỉ loài vật như ong, bướm …v..v… Nhắc lại rằng trong Phần 1 chúng ta đă duyệt qua tiếng cóc, voi, vịt, chuồn (chuồn) đă từng hiện diện trong tiếng TH dù rằng ít thấy. Từ khuynh hướng gọi tên các động vật, hi vọng chúng ta sẽ thấy rơ hơn tại sao tên 12 con giáp lại rất gần gũi với tộc Việt chứ không phải của TH như từ trước đến nay như mọi người đều lầm tưởng ! Ư thức được rằng sự thay đổi một định kiến đă nằm sâu trong xương tuỷ chúng ta từ bao ngàn năm nay thật là khó khăn, tuy vậy sự thật vẫn cần phải được đưa ra ánh sáng để các cuộc nghiên cứu trong tương lai có thể kiểm nghiệm một cách nghiêm túc, khách quan và theo đúng phong cách của khoa học hiện đại. Các bài viết 1, 2 và 3 chỉ tóm tắt rất sơ lược quan hệ tên 12 con giáp, những bài viết sau sẽ chi tiết hơn và phân tích từng tên mỗi con để thấy rơ nét các mối dây liên hệ đến tộc Việt. Phiên âm giọng Bắc Kinh theo lối Phiên Âm (pinyin) thường gặp hiện nay.
 
2. Tiếng Việt và tiếng Hán Cổ (hay tiếng Hán Cổ trong tiếng Việt)
 
2.1 Ong là động vật có nhiều gắn bó với văn hoá VN qua các thành ngữ như “nuôi ong tay áo” và ‘chạy như ong vỡ tổ”… cho thấy tâm lư con người. Danh từ ong được dùng 8 lần trong truyện Kiều so với bướm (7 lần)
 
                        “Tiếc thay một đoá trà mi
                        Con ong đă tỏ (mở) đường đi lối về”                (câu 845-846, Kiều)
 
Ong viết bằng chữ Nôm thường gặp là bộ trùng hợp với chữ phùng (gặp) hài thanh (HT), chữ này cũng chính là phong Hán Việt (HV) nghĩa là con ong - giọng Bắc Kinh (BK) bây giờ là feng1, Quảng Đông (QĐ) là fung1, Hẹ là fung1, bung1 … cho thấy tương quan ong-phong rất đặc biệt, có thể là cùng một gốc như qua các tương quan ông-công, ung-muống. Ông (bà) HV viết bằng bộ vũ hợp với chữ công, giọng BK bây giờ là weng1, weng3 so với jung1 QĐ, wung1, vung1 Hẹ và ong1 (Ngô), ang1 (Minnan/Đài Loan). Ngôn ngữ TH hiện nay không có nhiều tiếng bắt đầu bằng nguyên âm a, e, i/y, o/ơ, u … như tiếng Việt – các âm đầu này thường bị môi hoá hay ngạc hoá thành các dạng wu-, wo-, ya-, yu- … và biến đổi nhiều hơn để trở thành vo-, vu- (âm Hán thời Trung Cổ c̣n âm đầu v-) và fo-, fu- hay mo-, mu- … Thí dụ như úng HV (cái ṿ, hũ) viết bằng bộ ngoă (ngói) hay phữu (đồ sành) hợp với chữ ung HT, giọng BK bây giờ là weng4, yong1, yong2, yong3 so với giọng QĐ ung3, ngung3, ong3 và Hẹ là wung5, vung5 – so với ong1 (Ngô) và ang3 (Minnan). Có khi môi hoá để trở thành âm môi môi (phụ âm m) như ung HV, weng4/yong1 BK, ung3/ngung3 QĐ, wung5/jung1/rung1 Hẹ … mà tiếng Việt là rau muống. Thật ra chữ ong viết bằng ông HT là một chữ hiếm trong vốn từ TH hiện nay, tần số dùng1 là 21 trên 237243358, viết bằng bộ trùng hợp với chữ ông HT, giọng BK bây giờ là weng1, weng3 so với jung1 QĐ và vung1 Hẹ nghĩa là con ong ṿ vẽ. Chữ này đă có từ lâu, ít nhất là thời Hán khi Hứa Thận ghi lại trong Thuyết Văn Giải Tự là “…ông, trùng tại ngư mă b́ giả…”. Khuynh hướng hiện nay dùng điệp từ (từ ghép) của tiếng TH làm nguồn gốc của phong (con ong) khó được nhận ra : như ḿfeng1 (mật phong, nghĩa là con ong) hay huàngfeng1 (hoàng phong), măfeng1 (mă phong) chỉ con ong ṿ vẽ. Thường th́ các từ HV như pḥng, phóng, phụng, phủ, phi, Phật … có âm cổ hơn c̣n duy tŕ trong tiếng Việt là buồng, buông, bưng, búa, bay, Bụt … rất khác với liên hệ phong-ong. Một số tác giả như Lê Ngọc Trụ (“Tầm Nguyên Tự Điển VN” 1993) cho rằng ong có gốc là phong, nhưng ngược lại có một số tác giả khác lại cho rằng phong HV (feng1 BK) có gốc là ong (như theo Paul Benedict2 trong “Austro-Thai Language and Culture” 1975).    
 
2.2 Bướm thường thấy qua từ láy ‘bươm bướm’ hay với nghĩa rộng hơn trong cách dùng ‘bay bướm’. Chữ Nôm viết bướm bằng bộ khẩu hoặc bộ trùng hợp với chữ biếm, hay bộ trùng hợp với chữ phạp (viết ngắn đi). So với tiếng Mường Thạch Bi là pươm, pướm (theo từ điển Mường-Việt, NXB Văn Hoá Dân Tộc, Nguyễn Văn Khang chủ biên, Hà Nội 2002), pung khamu (tiếng Môn), pung paq3 (Danaw), pungpaq (Riang), paipyang (Thái), pam pam (Khamu) … Trong vốn từ TH hiện nay có chữ péng BK, bang1 QĐ viết bằng bộ trùng hợp với chữ bằng HT (thành ra có thể đọc là bằng, bồng), theo người viết th́ chữ này là tàn tích của âm bướm rất hiếm thấy so với các chữ dié BK (điệp HV), hú BK (hồ HV) hay chữ ghép hồ điệp đều có nghĩa là con bướm. Tuy nhiên, cũng trong vốn từ TH hiện nay ta c̣n thấy péng BK hay pung4 QĐ, pung2 Hẹ viết bằng bộ trúc hợp với chữ phùng HT có nghĩa là cái màn che, cái buồm. Cái buồm tiếng HV là phàm, hay fán BK với phụ âm đầu b- chính là âm cổ3 của phụ âm f- (ph-) c̣n được duy tŕ trong tiếng Việt. Như vậy có liên hệ ǵ giữa hai từ bướm và buồm tiếng Việt ? Tiếng Việt có đặc điểm là âm thanh gợi nhiều h́nh ảnh như âm –ong cho thấy một h́ng dáng cong cong, ṿng, móng, tṛng, ḷng tḥng, ḷng ṿng … Theo người viết th́ cánh buồm xưa kia có h́nh cánh bướm và đây là mối dây liên hệ - so với cách dùng con diều (điêu HV, giọng BK là yáo, yào) có h́nh cánh con diều hâu vậy. Bướm là động vật có trước, sau đó các tàu bè mới dựa vào h́nh dạng cánh bướm mà làm ra *bườm hay buồm - với thanh huyền để cho khác biệt. Cách dùng thanh điệu để chỉ hai việc khác biệt nhưng lại có những điểm giống nhau thường gặp trong tiếng Hán Cổ mà vết tích c̣n trong tiếng HV và Việt như đo (động từ) và độ (cũng dùng làm danh từ), hành (làm, động từ) và hạnh (danh từ), truyền và truyện, phân và phần … so với đấy và đây, ngày hôm kia và ngày hôm kỉa/ḱa, trôi/trổi/trồi/trội …v…v…    
 
Tóm lại trong tiếng TH hiện nay c̣n một số tiếng Việt Cổ và càng ngày càng mất dần đi có thể v́ hệ thống âm điệu khác nhau hay có thể v́ khuynh hướng cố t́nh đào thải các tiếng phương Nam của các chế độ phong kiến phương Bắc chăng ? Trường hợp của tên 12 con giáp rất đặc biệt : chúng đă làm nền tảng văn hoá và tín ngưỡng dân gian qua bao triều đại, và gốc rễ có quá nhiều thành ra không thế lực nào có thể cắt đứt hay bóp méo được nền văn hoá b́nh dân này4.
 
3. Tên các con giáp c̣n lại
 
3.1 Th́n/Thần HV, giọng BK bây giờ là chén – âm này có thể tương ứng với các âm trần, trầm, thần HV. Ngoài ra, âm chén BK đă từng có âm họng sau (velar) kh- theo Thuyết Văn Giải Tự - hay thần đọc như là *khân, điều này được Jerry Norman ghi nhận trong bài “ A note on the origin of the Chinese duodenary cycle’ (trong cuốn “Linguistics of the Sino-Tibetan area” 1985).  Phụ âm đầu kh- tương ứng với các dạng chỉ con trăn như tiếng Việt, tiếng Môn (klan, klon), Chrâu, Kơho (klăn) … Thêm vào đó là cách viết rất hiếm của chữ giao bằng bộ trùng hợp với chữ th́n bên phải có nghĩa là ‘.. h́nh dáng như con rắn nhưng lớn hơn và có sừng như rồng..” (Khang Hi Tự Điển, theo Norman). Các dữ kiện này có thể giải thích phần nào con vật tượng trưng cho chi này là rồng. Tuy nhiên, theo người viết nếu phục hồi âm cổ của Th́n/Thần là *tsri(a)n th́ ta có thể hiểu được các dạng sau này như Th́n/Thần, tlan (âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts- mất đi), rắn, tŕnh (loài cá giống con lươn), rồng/long (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn/bản…) và khuynh hướng đơn âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn > thằn lằn, *tlian > thuồng luồng … Các loài vật này đều có h́ng cong ṿng như con rồng5. Tiếng Thái gọi năm Th́n là bpee ma rohng cho thấy vết tích của dạng rồng trong các ngôn ngữ phương Nam.
 
3.2 Tỵ/Tị  HV, giọng BK bây giờ là ś so với zi6 QĐ, Hẹ là ze5, cih5, si5, su5… Trong cách viết/khắc cổ TH của tên 12 con giáp th́ Tỵ và Hợi là các chữ tượng h́nh cho thấy rơ nguồn gốc loài vật, nếu không kể các chữ khác ghi lại h́nh cây, đồ vật…. Cũng như chữ (Hán) của tên 12 con giáp6 thường được dùng làm thành phần HT trong quá tŕnh thành lập chữ mới, trừ Tuất ít được dùng. Như vậy là ta có 10 trên 12 tên con vật là loại chữ HT, hay khoảng 83 % so với hơn 90 % chữ Hán hiện đại là loại HT (có tác giả cho rằng tỷ số HT có thể đến 97 %). Loại chữ tượng h́nh càng ngày càng ít đi và càng khó nhận ra h́nh dạng nguyên thuỷ (qua các đợt chỉnh lư và đơn giản hoá). Chữ Tỵ c̣n được dùng để chỉ ngày lễ Thượng Tỵ cầu mát vào đầu tháng Ba của nước Trịnh, điều này cho thấy tên 12 con giáp có thể đă hiện diện từ thời Xuân Thu (770-476 Trước Công Nguyên/TCN). Âm cổ phục hồi của Tỵ là *zji? theo William Baxter (“A Handbook of Old Chinese Phonology” 1992), theo người viết liên hệ đến rít hay rết tiếng Việt. Kasit (tiếng Mường Ruc) nghĩa là con rít (rết, rệt) cho thấy dạng âm cổ *sit, so với giọng BK th́ phụ âm cuối –t thường mất đi như guó BK (quốc HV, c̣n duy tŕ âm cuối –c), ĺ BK (lực HV), fó BK (Phật HV), shí BK (thập HV, mười), qi1 BK (thất HV, bảy), zhí BK (chất HV) … C̣n phụ âm đầu s- thường biến thành t- khi nhập vào tiếng Việt cũng như các chữ khác như sài BK (tái HV, cửa ải), sàn BK (tán HV), shàn BK (thiện HV), shàng BK (thương HV), suí BK (tuỳ HV), ś BK (tự HV, chùa), ṣng BK (tụng HV, kiện) … Như vậy ś BK (Tỵ HV)  có cơ sở giải thích theo dạng rít Việt, thêm vào đó là tương ứng s-r khi ta so sánh tiếng Mường và Việt (như răng có âm cổ là *săng, theo Vương Lộc trong “An Nam Dịch Ngữ - giới thiệu và chú giải” 1995), và liên hệ đồng đại trong tiếng Việt như siết-riết, sít-rít, sầu-rầu, sờ-rờ, xà-rà, súc-rút, sầm-rầm, xẻo-rẻo…. Tiếng Việt c̣n có cách dùng rắn rít cho thấy hai loài vật này rất gần với nhau, là những loài sống trong hang hốc, ḅ sát và có thể rất độc hại. Thành ra Tỵ có thể đă từng là rít cũng không khó hiểu cho lắm; Các di tích t́m thấy từ thời Tiên Tần c̣n cho thấy sâu bọ cũng từng là tên của các con giáp (theo Thường Tuấn trong “Văn hoá 12 con giáp” 2005). Tiếng Thái bây giờ gọi năm Tỵ là bpee ma seng cho thấy dạng seng hay *săng (rắn).
 
3.3 Tuất HV so với giọng BK bây giờ là xu1, seot1 QĐ được tượng trưng bằng con chó. Để ư Tư/Tí/Tử liên hệ đến chuột với biến âm t-ch th́ Tuất cũng có thể liên hệ đến chó (qua phụ âm đầu). Tiếng Hán có chữ chúc/túc HV rất hiếm1 viết bằng bộ khuyển hợp với chữ túc HT (chân, cẳng) nghĩa là con chó nổi tiếng - giọng BK bây giờ là què, hú, qiăo, răn so với zoek3, coek3 QĐ cok7, sit7 Hẹ … Chữ này là một tàn tích của Tuất hàm nghĩa chó trong vốn từ TH hiện đại. So sánh các từ chỉ chó như chọ (tiếng Mường), cho (Sakai, Boloven), chuô (Kháng), txo (Danaw), xoq1 (Wa), choq (Sơđăng), axu, chuak, chook (Môn), xo (Kơho, Stiêng, Chơro), achoq (Chứt), xor (Savana), cho (Laqven, Biat) …v..v… cho thấy tiếng Môn c̣n duy tŕ dạng chuak (hay tuất). Tiếng Thái bây giờ gọi năm Tuất là bpee jaaw (năm chó).
3.4 Mùi/Vị HV – cách dùng thông thường của Mùi cho thấy dạng âm cổ hơn so với Vị HV gần với giọng BK bây giờ là wèi, giọng QĐ là mei6, Hẹ là mui5, mui6, mui3, vui5, wui5, Ngô là vi6, Minnan (Đài Loan) là bi7 … Các phương ngữ TH cho thấy rơ các biến âm b-v, m-v, w-v … cũng hiện diện trong tiếng HV và Việt. Liên hệ m-v c̣n thấy trong các cặp muôn-vạn, múa-vũ, mùa-vụ, mựa-vô, mù-vụ, muộn-văn … Các dạng âm cổ phục hồi theo Jerry Norman hay các tác giả trước đây như *mjôdh đều không giải thích được mối liên hệ đến dê, nhưng dựa vào cặp mùi-vị, ta có thể khôi phục một dạng cổ là *mvji(e), để ư nhóm phụ âm mv- đọc như và giọng Nam (tiếng Việt), và từ đó ta có một dạng nữa là dê. Ngoài ra, nếu để ư tiếng kêu đặc thù của loài dê là ‘be be’ hay mị HV, mie1, mi3, măi BK có nhiều cách viết khác nhau như dùng bộ khẩu, bộ dương (dê) cho thấy Mùi/Vị có thể có nguồn gốc tượng thanh – hay bắt chước tiếng kêu con vật cũng như chim cu, con quạ (ác), con mèo … cũng là một hiện tượng tự nhiên mà thôi. Tiếng Thái gọi năm Nùi là bpea ma mae tương đồng với dạng âm cổ *mvji trên.
 
3.5 Dậu HV so với giọng BK bây giờ là you3, jau5 QĐ … cũng chính là bộ thủ thứ 164 trong 214 bộ căn bản. Dậu và Tư (bộ thủ thứ 39) là hai chữ được dùng làm bộ thủ trong 12 chữ viết tên con giáp - điều này cho thấy sự quan trọng của các chữ và nghĩa này trong văn hoá TH. Nếu Tư hay Tử có nghĩa là con phản ánh liên hệ gia đ́nh huyết tộc th́ dậu biểu tượng cho rượu chè, một hoạt động căn bản của xă hội nông nghiệp. Tuy nhiên cả hai từ này đă bị ‘Hoa hoá’ quá lâu như trên nên chẳng thấy dính líu ǵ đến các loài vật ! Nhưng h́nh ảnh và các hoạt động con người từ từ lấn chiếm dần tên 12 con vật tổ (totem) này. Trong vốn từ TH hiện đại có chữ dậu HV, you3 BK viết bằng bộ điểu hợp với chữ hữu bên trái (rất hiếm) nghĩa là một loại chim giống loại trĩ, mà có thể coi như là loại gà (theo “VN Tự Điển” 1954), để ư rằng hai chữ trĩ và kê (gà) đều viết bằng bộ chuy (chim đuôi ngắn, bộ thủ thứ 171 trong 214 bộ). Theo người viết, đây là sợi dây gắn liền dậu và gà mà ta vẫn c̣n thấy vết tích trong chữ cổ (hiếm) TH. Thêm vào đó, một cách giải thích khác theo tác giả Jerry Norman (sđd, 1985) dựa trên kết quả nghiên cứu của André Haudricourt (1965) rằng các phụ âm v, d, g của tiếng Mường và Việt có thể là vết tích của các tiền tố cổ
 
            Tiếng Việt                    gà                    gạo                  vải   
         Mường                        ka                    kao                  pai
            Ruc                             rơka                 rơko                kupal
            Arem                           lak                   -                      -
            May                            -                      rơko                kơpai
 
Từ đó, Norman đưa ra dạng âm cổ phục hồi của gà là *rơka hay *ruka. Theo người viết th́ quá tŕnh mất tiền tố này cũng giống như dạng kasit cho ra *sit hay rít đă nói ở phần Tư trên. Tác giả Hồ Lê cũng ghi nhận gà là từ Nam Á (Austroasiatic) trong bài viết “Từ Nam Á trong tiếng Việt” (trong cuốn “Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc” NXB Khoa Học Xă Hội – Hà Nội 2002). Tiếng Thái gọi năm Dậu là bpe gai (năm kê hay gà) hay là bpee ra gaa (năm gà) phù hợp với các dạng Mường.
 
3.6 Hợi HV so với giọng BK bây giờ là hài, QĐ là hoi6. Âm cổ phục hồI có dạng *goi/kui - liên hệ của hợi và heo có thể thấy được qua tiếng Mường củi/kun/kul : phụ âm đầu h-k cùng vị trí phát âm nên dễ hoán chuyển cho nhau như hữu-có, hồ-c̣ (hồ cầm là đàn c̣), Hùng-khun (vua/thủ lănh dân Mường), Hán-khan (lănh tụ), hộ-cửa, hơi-khói/khí, hầu-khỉ, hoá-của … Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của, 1895) c̣n ghi là “..cá cúi : thứ cá biển nhiều mỡ như heo, cũng gọi là heo biển; Heo cúi : tiếng đôi nghĩa là con heo..” (trang 201). Gỏi có thể đă từng làm bằng thịt heo, nhưng nghĩa đă mở rộng để chỉ cá, tôm, gà … trộn với rau. Theo Jerry Norman (sđd) th́ gỏi có nghĩa là heo (tiếng Việt Cổ) ??  Không những Hợi liên hệ đến heo/lợn qua tiếng Mường hay Việt Cổ nhưng tàn tích có thể hiện diện trong vốn từ TH hiện đại. Có vài chữ mà theo người viết là các dạng khác nhau của Hợi hay *hị và *hệ (so sánh với các biến âm thi/thơ/thư, kỳ/cờ, thị/chợ, li/rời, di/dời, vị/bởi, ti/tơ, bị/bới/búi…). Chữ hê/hề/hệ với giọng BK bây giờ là xi1, hei1, sik1 QĐ viết bằng bộ khuyển hợp với chữ hí/hô/huy HT có nghĩa là con heo - chữ này rất ít thấy1 (hiếm). Một chữ nữa thường gặp hơn là HV so với giọng BK bây giờ là hei1, héi viết bằng bộ thỉ hợp với chữ hi HT – cũng chỉ con heo/lợn nhưng không thông dụng bằng các chữ khác như trư, thỉ, trề, ba … Vết tích của liên hệ hợi-cúi c̣n thấy trong chữ hui1 BK (hay hôi/huy/khôi HV) viết bằng bộ thỉ hợp với chữ thổ1 bên phải nghĩa là con heo. Tiếng Thái bây giờ gọi năm Hợi là bpee goon - để ư dạng cun là con heo của tiếng Mường – cho thấy tiếng Thái vẫn c̣n duy tŕ một số tiếng Việt Cổ và là một dây nối quan trọng để hiểu rơ hơn nguồn gốc tên 12 con giáp.
 
Như vậy là ta đă xem qua tên 12 con giáp, thoạt nh́n th́ các từ HV Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi có vẻ như có gốc Tàu – nhưng tra kỹ ra th́ thấy rơ những mối dây liên hệ với các ngôn ngữ phương Nam - đặc biệt nhất là tiếng Việt và Việt Cổ qua tiếng Mường và họ Môn-Khme. Điều này càng dễ hiểu nếu ta nh́n rộng ra các tên loài vật vẫn c̣n tàn tích trong vốn từ TH hiện đại, tuy càng ngày chúng càng bị đào thải v́ hệ thống âm thanh không phù hợp hay v́ các đợt ‘chỉnh lư’, ‘đơn giản hoá’ chữ viết cùng khuynh hướng cố t́nh bôi xoá ảnh hưởng từ phương Nam khi nền văn hoá này khởi sắc trước thời Tần. Với ảnh hưởng quan trọng của nền văn hoá TH từ đời Hán và sau đó từ đời Đường, Tống… với sức ép của nhóm thống trị từ phương Bắc tràn xuống, các tên 12 con vật tổ đă từ từ thay thế bằng h́nh ảnh con người, mang nặng màu sắc văn hoá TH hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đă trở nên trừu tượng và c̣n ảnh hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán). Tuy nhiên, cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể thay đổi được nền văn hoá b́nh dân (khẩu ngữ), trong đó dân ta vẫn khư khư coi mèo là biểu tượng của chi Măo ! Chính v́ thế mà ta phải đặt lại vấn đề nguồn gốc của tên 12 con giáp, đúng theo tinh thần của người trước gói ghém trong câu
 
                        “Trăm năm bia đá th́ ṃn
                        “Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ”   
 
4. Phụ chú và phê b́nh thêm
 
(1) dữ kiện về tần số dùng của các chữ Hán hiện đại dựa vào tài liệu trên mạng Internet www.chinalanguage.com/cgi-bin/dict.php. Các chữ hiếm có tần số dùng rất thấp, thường rất ít gặp trong các tự điển hiện đại.
 
(2) Ong có âm cổ phục hồi hệ Nam Thái (Austro-Thai) theo Benedict là *bluung không phù hợp với các dạng QĐ, Hẹ, Việt. Nếu xem các cấu tạo chữ Hán, ta thấy ông thường đuợc dùng làm thành phần HT. Chữ này lại được viết bằng bộ vũ hợp với chữ công cho thấy dạng âm cổ ô- hay hô-, kô- … Xem qua các ngôn ngữ láng giềng ta thấy tiếng East Mnông có ?uong (? chỉ âm bật thanh quản/glottal stop) để chỉ con ong, so với ?ong (tiếng Mường, Bahna, Stiêng, Chrau, Kơho, Sơđăng) theo Paul Sidwell trong cuốn “Proto South Bahnaric” (2000). Sidwell ghi nhận âm cổ phục hồi của tiếng tiền Katuic (Proto-Katuic) là *hang, tiếng tiền Waic là *?ong, *anh, tiếng tiền Chàm là *hong so với huing (tiếng Môn), wong/wol (Riang), ong (Wa), on (Paluang), hong (Besisi), cong (Semang, một dạng Bahna). Các tương quan trên, nhất là từ các ngôn ngữ không có nhiều giao lưu với TH, cho thấy feng1 BK (phong HV) rất có thể là từ mượn từ các dân tộc ở phương Nam từ Thượng Cổ. Tiếng Thái có chữ pheungF đọc như phương tiếng Việt, có thể là ảnh hưởng của tiếng TH Trung Cổ - cùng thời với sự xâm nhập và phát triển có hệ thống của tiếng HV thời Đường Tống.
 
(3) Biến âm b-ph/f rất thường gặp trong ngôn ngữ như qua định luật Grimm trong họ Ấn Âu... Trên phương diện lịch đại ta thấy các cặp từ bỏ-phế, bài-phé, buồng-pḥng, buông-phóng, bộ-pho, búa-phủ, bổ/bửa-phẩu/phẫu, bể-phá, bè-phái, bay-phi, bưng-phụng, buồn-phiền, buồm-phàm, bún-phấn, buộc-phọc, bèo-phiêu, bào-phao, Bụt-Phật … ngay cả trên phương diện đồng đại ta thấy bỏng-phỏng, b́nh-bịch hay bành-bạch, phành phạch …  tuy không phổ thông cho lắm. Như vậy th́ b- dẫn đến ph- hay ngược lại ? Nếu xem chữ Bụt (từ tiếng Phạn Budh-) để cho ra chữ Phật HV so với chữ Bụt đi thẳng vào tiếng Việt th́ rơ ràng là b- đă hiện diện trước ph- . Ngoài ra khi dùng từ ghép trong tiếng Việt th́ chữ có trước thường đi trước như buồn-phiền, bè-phái, bỏ-phế….. Thêm vào đó là các âm mạnh (strong sound) như b- có khuynh hướng trở thành âm yếu như p-, ph/f- hay âm vang trở thành âm điếc : hiện tượng này gọi là nhược hoá (lenition hay weakening). 
 
(4) Thật ra th́ đă có những hoạt động thay đổi hoặc ‘chỉnh lư’ các tên như người viết đă từng nêu lên trong bài viết (phần 2) : măn (mèo) hay miễn thay bằng thố (thỏ), nhưng dân Việt vẫn khăng khăng giữ tên gọi Măo để chỉ con mèo chứ không dùng thỏ. May thay, chính văn hoá truyền khẩu lại duy tŕ được nghĩa nguyên thuỷ, chứ nếu dựa vào chữ Hán sau nhiều đợt ‘chỉnh lư’ th́ có thể không truy được ngọn ngành cho thoả đáng !
 
(5) Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hoá VN” NXB Giáo Dục – Thành Phố HCM (1999) đă ghi nhận rồng xuất phát từ vùng Đông Nam Á và ảnh hưởng đến văn hoá TH (trang 135). Điều này phù hợp với dạng âm cổ phục hồi *tsri(a)n để cho ra các tiếng khác như trăn, rắn, rồng, lươn, thuồng luồng, thằn lằn … 
 
(6) qua khung cửa rất nhỏ của tên và cách viết 12 con giáp, ta có thể t́m thấy nhiều dữ kiện đặc biệt của tiếng TH, tiếng HV, Việt … và qua các cách viết cổ của chúng, ta có thể t́m lại được phần nào nền văn hoá cổ đại của phương Đông như sự ‘kính nể’ các loài vật tín ngưỡng thờ các loài vật, dùng chúng làm totem ..v..v..
 
5. Đính chính và bổ túc
 
5.1 V́ phải tranh thủ thời gian để đánh các bài viết này, nên người viết không thể nào tránh được một số lỗi thông thường như bỏ dấu sai, thiếu/lộn nét, quá tóm tắt, ư mơ hồ … Thí dụ như trong phần 2 ḍng 7 trang 1, gióng lên viết là ‘giống lên’; Trang 2 ḍng 1 ‘on’ và ‘kun’ đổi cho nhau ..v..v… Khi đọc lại bài đánh th́ trễ quá, bài đă lên mạng !
 
5.2  Đáng lẽ phải chêm một số chữ Hán để cho rơ nghĩa cho các bài viết này, nhưng v́ đa số chữ Hán dùng trong bài viết là loại chữ hiếm không dễ dán vào, người viết vẫn c̣n đang t́m loại fonts cổ điển và thích hợp để giải quyết vấn nạn này. Tuy nhiên, hi vọng bằng cách ghi lại bộ thủ và thành phần HT, mức độ sai trái sẽ giảm thiểu tối đa.
 
5.3 Quư độc giả muốn trao đổi thêm ư kiến để chúng ta cùng học hỏi thêm, xin liên lạc với Ban Biên Tập của khoahoc.net hay người viết qua địa chỉ email   nguyencungthong@yahoo.com, mong rằng 'Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên ḥn núi cao’ trong biển học vô cùng vậy.
Nguyễn Cung Thông

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17